Page 42 - Ngữ Văn Ôn Thi Tốt Nghiệp
P. 42
TRÀNG GIANG
HUY CẬN
A. KIẾN THỨC BỔ TRỢ
I -Tác giả: Huy Cận tên thật là cù Huy Cận. ông sinh ngày 31 tháng 5 năm
1919, tại xã Đức Ân, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Thuở nhỏ, ông theo học quốc
ngữ. Năm 1928, ông vào Huế theo đuổi nghiệp đèn sách và đậu tú tài vào năm
1939. Sau đó ôtig ra Hà Nội theo học Trường Cao đẳng Nông Lâm. Huy Cận tham
gia Mặt trận Việt Minh, tháng 7 nàm 1945, ông dự Quốc dân Đại hội tại Tân Trào
và được bầu vào ủy ban Dân tộc Giải phóng Toàn quốc. Cách mạng thành công,
ông lần lượt được cử giữ chức vụ Thứ trưởng của các bộ; Bộ Canh nông, Bộ Nội
vụ, Bộ Kinh tế, Bộ Văn hoá. Sự nghiệp sáng tạo thi ca của Huy Cận thật bền bỉ,
Tính đến nay, ông đã cho ra mắt hơn 20 tập thơ và ộng là nhà Thơ mới hiếm hoi
vẫn còn sáng tác ỏ thế kỉ XXI. Thơ ông được dịch nhiềụ ra tiếng nước ngoài (Tập
thơ Nước triều đông, Thông điệp từ vừng sao và fừ mặt đất). Năm 1996, Huy Cận
được nhà nước trao tặng Giải thưởng Hổ Chí Minh.
Năm 1942, Huy Cận cho xuất bản tập văn xuôi K/nh cầu tự, hoàn thành tập
thơ thứ hai Vũ trụ ca, chưa in thành:sáchi Sau 1945, Huy Cận tiếp tục cho ra đời
các tập thơ Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Đất nỏ hoa (1960), Bài thơ cuộc đời
(1963). Những năm sáu mươi (1968), Cô gái Mèo (1972), Chiến trường gần chiến
trường xa (1973), Những người mẹ những người vợ (1974), Ngày hằng sống ngày
hằng thơ (1975), Ngôi nhà giữa nắng (1978), v.v... Huy Cận là một trong những trụ
cột của phong trào Thơ mới. ^ ?
II- Phong cách /
Ngàn năm sực tỉnh lê thê
Trên thành son nhạt - Chiều tê cúi đầu {Chiều xưa)
Cùng với Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Tố Hữu, Huy Cận là một
trong năm nhà thơ tiêu biểu nhất thế kỉ XX của Việt Nanri. Không giống với nhiều
nhà thơ khác, sự nghiệp sáng tác và hoạt động cách mạng của Huy Cận luôn gắn
bó chặt chẽ. ở Huy Cận, nhà thơ đồng nghĩa với chiến sĩ; hiểu theo hai cách, thơ
ông phục vụ sự nghiệp đấu tranh cách mạng và xây dựng Tổ quốc trong suốt gần
cả thế kỉ hào hùng của dân tộc và thơ ông tiên phong trong phong trào đi tìm cái
đẹp ẩn đằng sau, cái đẹp qua sự giải phóng ngôn từ một cách kì diệu nhất.
Ôi! nắng vàng sao mà nhớ nhung!
Có ai đàn lẻ để tơ chùng?
Có ai tiễn biệt nơi xa ấy
Xui bước chân đày cũng ngại ngùng... {Nhớ hờ)
41