Page 41 - Ngữ Văn Ôn Thi Tốt Nghiệp
P. 41

người mà cái chết đang cận kề, thì hẳn dễ đồng cảm với độ thu tàn. Đáng lưu ý là
     các hình ảnh về thu trong thơ Xuân Diệu thì chẳng hề lạ lẫm, nét mới lạ ở Đày mùa
     thu tới chủ yếu là do “lạ hoá” cách đặt câu, sử dụng động từ, tính từ, cách tạo quan
     hệ cho hình tượng... Còn ỏ Hàn Mặc Tử, đấy là nhũmg hình ảnh lạ,  như đến từ cõi
     mộng, từ thế giới bên kia:
                      Lụa trời ai dệt với ai căng,
                      Ai thả chim bay đến Quảng Hàn,
                      Và ai gánh máu đi trên tuyết,
                      Mảnh ào da cừu ngắm nở nang. {Cuối thu)
         Dường như khổ thơ này đang miêu tả bầu trời. Trên nền trời (được ví như tấm
     lụa) có chim bay, có cả hình người gánh máu đi trên tuyết,  khủng khiếp quá, gam
     màu chết chóc và u lạnh... Đây đích thị là thu của thế giới huyễn ảo. Tâm trạng đó
     vẽ nốt cảnh thu quái dị:
                      Cây gì mảnh khảnh run cầm cập,
                      Điềm báo thu vàng gầy xác xơ. {Cuối thu)
         Cũng là cây, cũng là màu  vàng nhưng cây và màu ấy khác xa với cây và màu
     của Xuân Diệu:
                       Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh
                      Những luồng run rẩy rung linh lả
                      Đôi nhánh khô gầy sương mỏng manh.
         Rõ ràng chính tâm trạng và cái tạng thi sĩ đã khiến Xuân Diệu và Hàn Mặc Tử
     có những cách nhìn và cảm thụ riêng về thu. Tuy nhiên, bài thơ thu của Xuân Diệu
     nổi tiếng  hơn. Với Đáy mùa thu tới, Xuân Diệu đã khảm trong lòng  người đọc bao
     thế hệ  bức tranh  mùa  thu  qua  rặng  liễu,  màu  hoa,  cành  cây  (trụi  lá),  mây,  cánh
     chim,  khí trời,  thiếu  nữ tựa cửa.  Những  hình ảnh  này,  mỗi khi được  nhắc đến đều
     gợi trong lòng  người đọc về một khung cảnh thu,  một nỗi  buồn  man  mác hệt như
     tình thu trong vũ trụ diệu huyền.
         Xuân  Diệu  đã  đi trọn con đường  ‘7ạ  hoá’  thu theo cách  của  ông.  Dầu  có sử
     dụng  ít  nhiều  thu ngữ của  nhũhg  người  đi trước  nhưng  Xuân  Diệu  đã  khoác cho
     chúng  những  sắc  màu,  những  cảm  xúc  mới.  Và,  cái  đích  đến  cuối  cùng  của  “lạ
      hoá” lại chính là sự “quen hoá”.  Biến cái quen thành lạ rồi lại khiến cái lạ ấy thành
      quen đấy chính là con đường của tư duy sáng tạo nghệ thuật mà bao đời  nay bất
      kì nghệ sĩ lớn nào cũng phải tuân theo.
          Thu  ngữ cửa  Xuân  Diệu  là  liễu  chịu  tang,  cây  côi  và  vạn  vật  khoác  áo  mơ
     phai, là sắc màu rủa (hoặc rũa) nhau, là giá rét luồn trong gió, là nỗi buồn vô cớ, là
      hình  dáng  thiếu nữ tựa  cửa  nhìn xa xăm...  Xuân  Diệu  đã  khiến  cho thu  Việt  hịện
      lên thật đậm đà, da diết. Thu của cõi trời riêng.
                                                                 LÊ HUY BẮC




      40
   36   37   38   39   40   41   42   43   44   45   46