Page 45 - Ngữ Văn Ôn Thi Tốt Nghiệp
P. 45

Tràng giang được viết theo thể tự do,  nhưng  Huy  Cận  lại  sử dụng  rất  nhiều
    điển  tích,  điển  cố của  Trung  Quốc và  của  văn  thơ cổ.  Vì  vậy,  tuy  nỗi  buồn  bao
    trùm lên toàn  bộ  bài thơ,  nhưng  không  khí thơ mang  âm  hưởng trầm  lắng, thanh
    cao, quý phái.

        Bài thơ là  bức tranh  phong cảnh thơ mộng của  buổi chiểu trên sông xứ Bắc,
    thấm đượm  nỗi buồn cô đơn  man mác của tám hồn thi sĩ trước vũ trụ khôn cùng.
    Qua đó, nhà thơ gủl gắm khối tình dành cho thiên nhiên, cho con người trong buổi
    nước mất nhà tan dưới ách nô lệ của thực dân Pháp.
        Bài  thơ  được  chia  thành  bốn  khổ,  mỗi  khổ  đểu  có  một  nét  tâm  trạng  buồn
    riêng và được mỏ theo không gian...  Do vậy, có thể tiếp cận bài thơ theo từng khổ
    để tìm ra nét đặc sắc nghệ thuật riêng của Huy Cận.
        B. TIẾP CẬN TÁC PHẨM

        I.  Tư duy phân đôi của “Tràng giang”
        Mở đầu bài thơ, tác giả khảm ngay một chữ “buồn” lên bức tranh phong cảnh:
    “Sóng  gợn tràng  giang  buồn điệp  điệp”.  Kết thúc  bài thơ,  tác  giả  buộc  chặt,  gói
    ghém mọi nỗi  niềm trong chữ “nhở’: “Không khói hoàng  hôn cũng nhớ nhà”. Vậy
    ra, buồn nhớ là âm điệu chủ đạo cừạ, Tràng giang.
        Tâm trạng ấy đã chi phối toàn bộ hình tượng thơ  Tràng giang.  Nhìn đâu  đâu
    tác giả cũng chỉ thấy đơn lẻ {một), trống vắng (không một). Song nét đặc sắc nhất
    của bài thơ, điều khiến  Tràng giang\à  Tràng giang, một hình hài,  một linh hồn thơ
    độc đảo và duy nhất là ở cách tư duy phân đôi. Đây là cội nguồn của nỗi buổn nhớ
    kia.  Nó khiến cho  Tràng giang vừa là một vừa là không một vừa chỉ còn  một nửa
    (phân đôi) của cái tôi cái ta trohg dẩu bể cuộc đời...
        Bài thơ chỉ xuất hiện hai chữ“mộf (củi một cành, một chuyến đò) song  những
    hình ảnh trong bài thơ thì thường ở số ít hoặc gợi lên số ít: một con thuyền, một cồn
    nhỏ,  một làng xa, một cánh chim... vậy nên âm hưởng chung của  Tràng giang là
    đơn chiếc,  cỏ độc,  lẻ loi.  Cảnh vật dưới đất thì xa  lìa,  cảnh trên trời thì bảng lảng
    (mây  cao,  núi  bạc)  lại  được  điểm  xuyết  bằng  cánh  chim  trơ trọi,  buồn  xao  xác,
    nghiêng cả chiều tà.
        Hai  khổ thơ đầu,  Huy Cận giới  tiạn sự vật vào một.  Đến  hai  khổ cuối, ý thức
    đơn lẻ lớn hơn, rnạnh hơn và nỗi buồn nhớ càng da diết hơn nên lúc này xuất hiện
    không một, phủ định cả cái một trước đó (không một chuyến đò, không cầu, không
    khói). Điệp từ không vang lên, tạo sự trống vắng hiu quạnh vô cùng:

                     Không cầu gợi chút niềm thân mật,
                     Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
        Không phải đợi đến cuối bài thơ thì âm hưởng “Nhật mộ hương quan hà xứ thị
    / Yên  ba  giang  thượng  sử nhân  sầu”  (Quê  hương  khuất  bóng  hoàng  hôn  /  Trên

     44
   40   41   42   43   44   45   46   47   48   49   50