Page 47 - Ngữ Văn Ôn Thi Tốt Nghiệp
P. 47

(Lơ thơ tơ liễu  buông mành  -  Tniyện  Kiều)  chứ hiếm  khi  được  dùng  để tả  “cồn
       nhỏ”.  Với  cách sử dụng  định từ này,  ta  có thể hình  dung  được  nhiều cảnh  quan,
       liên  quan  đến  “cồn  nhỏ”,  hoặc  là  nhiều  cồn  nhỏ  lơ thơ  (rải  rác)  hoặc là  cồn  nhỏ
       thưa thớt cây.  Cách hiểu thứ hai có lẽ  hợp  lí hơn...  Nhờ cách  kết  hợp từ như thế,
       tác giả đã sáng tạo nên những câu thơ giàu hình tượng.
           Nhưng  chưa  hết,  câu  thơ còn  cả  một  cụm chủ  vị  nữa:  “gió  đìu  hiu”.  Cụm từ
       này gợi  nên  âm  hưỏng  “Bến  Phì  đìu  hiu” trong  Chinh phụ ngâm  của  Đặng  Trần
       Côn. Các hình tượng thơ của  Tràng giang thường được xây dựng theo nguyên tắc
       gợi lièn tưởng đến những hình tượng trong thơ ca cổ. Chính vì thế nên âm hưỏng thơ
       trầm mặc, trang trọng và linh hoạt vô cùng.

           Câu  thơ  Tràng giang hàm  chứa  nhiều  khả  năng  chủ  vị.  Do vậy  dung  lượng
       nghệ thuật và nội hàm câu thơ cứ tăng thêm. Đây là nét đặc biệt của  Tràng giang.
       Bất cứ câu thơ nào của bài thơ cũng hàm chứa hai mệnh để, có khi độc lập, có khi
       r.gầm phụ thuộc, ta phải thêm từ vào thì mới rõ hơn kiểu tư duy phàn đôi càu thơ,
                        Sóng gợn tràng giang /  (sông hoặc tôi) buổn điệp điệp
                        Con thuyền xuôi mái (chèo)/nước song song

                        Thuyền về /  nưdc lại sầu trăm ngả
                        Củi một cành/(cành) khô lạc mấy dòng
                        Lơ thơ cồn nhỏ /gió đìu hiu...
           Tác giả sử dụng biện pháp ngắt - tăng cấp, tạo nên sự chia cách, nhấn mạnh
       cảm giác cô  đơn  buồn  bã.  Bài thơ xuất  hiện  nhiều  khách thể  nghệ thuật,  nhưng
       khách thể  nào cũng  buồn,  không liên  kết về tình cảm  mà toa  rập với  nhau trong
       dửng dưng trước nỗi niềm bơ vơ của tác giả.
           Chỉ có câu kết thì không trực tiếp chứa hai mệnh đề nhưng ngẫm kĩ thì nó vẫn
       được triển  khai trên  kiểu tư duy phân  đỏi của  bài thơ.  Mệnh đề thứ hai  ngầm ẩn.
       Đấy  là  khói sóng trong  bài thơ  Thôi  Hiệu.  Đọc  câu  thơ  “Không  khói  hoàng  hôn
       cũng  nhớ nhà” ta thấy hiện lên trong tâm trí mệnh đề ngược lại:  có khói  nhớ nhà.
       Dĩ nhiên  sự  hiện  diện  theo  kiểu  liên  tưởng  này  chỉ  xảy  ra  với  những  ai  thuộc
       Hoàng Hạc làu.  Nét tương  đồng  ở đây là  khói sóng và  nhớ nhà.  cả  Thôi  Hiệu,
       Huy Cận đều  nhớ nhà. Đừng  nên vì không có khói sóng  mà cho là  Tràng giang
       buồn hơn Hoàng Hạc lâu.  Mỗi bài thơ đều hay, đều buồn, đều đẹp.  Nhưng cách
       thể hiện chúng thì khác nhau.
           Vậy nên tinh chất đa mệnh đề của câu thơ, của tư duy thơ tạo nên sự hô ứng
       chặt chẽ, diễn tả cái buồn mênh mang trong hồn thơ.
           Việc phân chia hai mệnh đề như trên chỉ dừng ở mức tương đối bởi ngay trong
       một câu thơ ta cũng có thể hiểu theo nghĩa của  một câu trọn vẹn. Chẳng hạn xét
       câu, “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp” thì “sóng gợn tràng giang” là chủ ngữ



       46
   42   43   44   45   46   47   48   49   50   51   52