Page 36 - Ngữ Văn Ôn Thi Tốt Nghiệp
P. 36

thường tình của trời đất khi thu về. Nhưhg nếu là rủa thì, ngoài việc diễn tả sự xung
  đột,  “rủa”  còn  gợi  lên  sự “mắng  nhiếc”,  sự “to  tiếng”  của  sắc  màu.  Chính  biện
  pháp nhân cách hoá này đã khiến màu sắc, khiến hoa lá, liễu,... vốn là vô tri bỗng
  trỏ nên hữu ý, hữu tình; bỗng trỏ nên ngoa ngoắt, đỏng đảnh,... một cách rất... thu.
      Mùa thu thường gắn với lá vàng, lá khô,  cành khò,... gắn với những âm thanh
  rất khẽ cùng với sự lảng  bảng, trong veo của đất trời.  Quan trọng  hơn là thu  luôn
  gắn với ý thu,  tình  thu điều  mà  có lẽ với  bốn  mùa  trong  năm,  chỉ  mùa  xuân  mới
  sánh  nổi.  Bởi vậy,  ta dễ bắt gặp thu  khắp  nơi trong thơ ca,  không  chỉ ở Thơ mới,
  thơ Đường mà cả thơ hai-cưcũng dành cho thu phần trang trọng:
                   Trên cành cao
                   Chim quạ đậu
                   Chiều thu   (Thơ Ba-sô, Nhật Chiêu dịch)
      Bài thơ về “con  quạ”  này được xem là  một trong  nhũmg tuyệt tác của  Ba-sỏ.
  Ba hình ảnh được dùng để khắc hoạ bức tranh thu của bài thơ gồm tám chữ (theo
  bản dịch) là ba hình ảnh gần như xuất hiện trong các bài thơ viết về mùa thu: cành
  cây, chim (quạ), buổi chiều. Nếu so sánh với Đây mùa thu tới thì ta sẽ thấy có một
  hình ảnh trùng nhau:  cành cây.  Cành cây của Ba-sô không có tính từ biểu lộ hình
  thể (do đặc điểm vò cùng hạn chế ngôn từ của thơ Hai-cư, nguyên bản mỗi bài chỉ
  17 âm tiết, riêng bài “con quạ” này đã vượt ngưỡng thòng thường -19 âm tiết) còn
  cành cây trong thơ Xuân  Diệu thì được  miêu tả  rõ;  “đôi  nhánh khô gầy’.  Nếu  chỉ
  “đôi  nhánh  khô“ không thôi thì  hình tượng  không có sức sống.  Cành cây đã chết.
  Chỉ cần thêm chữ “gầy” thì cành cây khô ấy đã sống lại,  dẫu chỉ là “mong manh”.
  Sự tinh tế trong  miêu tả và cảm nhận thiên nhiên của Xuân  Diệu tập trung ở chỗ
  này.  Không  chỉ  quan  sát  và  đọc  được  lời  “rủa”  của  hai  sắc  màu,  ông  còn  cảm
  nhận được sự chuyển dịch rất khẽ của cây lá: “Những luồng run rẩy rung rinh lá”.
  Việc đặt hai từ láy có phụ âm đầu “r” khiến câu thơ tăng thẻm phần động. Chỉ cần
  đọc lên, ta  có thể  cảm nhận và  hình  dung  được sự chuyển  dịch  vô  cùng  bé  nhỏ
  của thiên nhiên, của lòng người.
      Chi  hai  câu  thơ,  Xuân  Diệu  đã  dùng  đến  ba từ láy:  run rẩy,  rung rinh,  mỏng
  manh.  Những từ láy này vừa  mang nhạc tính cao cho thơ vừa  góp  phần  kiến tạo
  hình  khối,  động thái  khiến  mùa thu  lung linh  huyền diệu như chính sự kì diệu  cũa
  nó kể cả sự xao xuyến đổi thay;
                    Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ
                    Non xa khởi sự nhạt sương mờ.
       Chính cái  nhìn  nhân  cách  hoá tiếp tục mang lại sự thân thương,  gần gũi cho
   các sự vật hiện tượng trong tự nhiên.  Nếu ta thay “nàng trăng” bằng “vầng trăng”
   thì câu thơ sẽ mất  hết sự thân thuộc, tuy nhiên,  “vầng trăng” thì vẫn có thể  ngẩn
   ngơ.  Nhờ động thái “ngẩn ngơ” này mà “nàng trăng” mới có sự liên ứng với ‘1hiếu


                                                                           35
   31   32   33   34   35   36   37   38   39   40   41