Page 31 - Ngữ Văn Ôn Thi Tốt Nghiệp
P. 31
Với văn chương, mùa thu là mảnh đất riêng của thơ. Văn xuôi cũng miêu tả
mùa thu, khai thác mùa thu cho những mục đích thẩm mĩ nhưng do đặc trưng mùa
thu là mùa cảm xúc nên các áng văn xuôi dù dụng công đến mấy cũng không thể
có được thành tựu bằng thơ. Tiếng xào xạc của lá, dáng vẻ ngơ ngác của chú nai d^
dặt đặt chân lên thảm lá vàng rơi rụng, ấy là thu:
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô. (Tiếng thu, Lưu Trọng Lư)
Trong tiến trình văn học Việt Nam, điểm gặp gỡ sâu nặng, bền vững nhất giữa
trời thu và hồn thu trong văn chương là giai đoạn 1932-1945. Lịch sử nô lệ của dân
tộc thời kì này đã khảm trong hồn các thi nhân màu thương nhớ, màu tiếc nuôi,
màu u sầu... đấy là các gam màu thu được cảm nhận qua tâm hồn một thê hệ
vàng trong thi ca Việt.
Thâm Tâm trong Tống biệt hành tiễn đưa người trong sắc vàng của nắng thu
khi mùa thu vừa chớm {Trời chưa mùa thu tươi lắm thay):
Nắng chiều không thắm không vàng vọt ■>
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong.
Bích Khê diễn tả thu trong sắc lá vàng rơi:
Ó hay buồn vương cây ngô đổng
Vàng rơi! Vàng rơi: Thu mênh mông. {Tì bà)
Cùng là sắc vàng thu, nhưng Anh Thơ không chọn màu của lá, của hoa cúc
mà là màu vàng của hoa mướp - loài hoa binh dị chốn làng quê:
Hoa mướp rụng từng đóa vàng rải rác
Lũ chuồn chuồn nhớ nắng ngẩn ngơ bay. {Sang thu)
Nguyễn Bính thì trống tênh thu trong Một trời quan táP^:
Chiều lại buồn rồi, em vẫn xa
Lá rừng thu đổ, nắng sông tà
Chênh vênh quán rượu mờ sương khói
Váng vất thôn sâu rộn tiếng gà
Đành rằng một trong những đề tài lớn của thi phái lãng mạn là thiên nhiên bao
gồm đủ cả bôn mùa và vạn vật cây cỏ, nhưng với các nhà lãng mạn bậc thầy Việt
Nam, thu luôn là phạm vi chiếm ưu thế. Bởi lẽ họ có thể đọc trong thu nỗi xao
xuyến lúc giao mùa, đọc trong thu sự tiếc nuối; đọc trong thu bản hoà tấu vĩ đại
của hạ - thu - đông, của khoảnh khắc cái đẹp đột ngột hiện ra roi vội tan biến
trong cái xứ sỡ nóng ẩm nhiệt đới gió mùa.
(1) Nguyễn Bính, thơ và đời, NXB Văn học, H., 1998.
30