Page 38 - Ngữ Văn Ôn Thi Tốt Nghiệp
P. 38
Và đây là không khí thu của Thơ duyên:
Chim nghe trời rộng giang thêm cánh,
Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần.
Tuy là không khí độ chớm thu nhưng Đây mùa thu tới không cùng tâm trạng
với Thơ duyên và chắc hẳn Thơ duyên ra đời tại khoảnh khắc thu sớm hơn thu của
Đây mùa thu tới. Dĩ nhiên, Thơ duyên được đặt trên cảm xúc tương giao tương hợp
nên mới có được cái nhìn rộn ràng, tha thiết, tươi trẻ hơn:
Chiều mộng hoà thơ trên nhành duyên,
Cây me ríu rít cặp chim chuyền.
Đổ trời xanh ngọc qua muôn ìá,
Thu đến - nơi noi động tiếng huyền. ^
Đày mùa thu tới thì được đặt trên cảm xúc của sự trống vắng, mất mát, chia
lìa. Đâu còn cảnh “Mây biếc về đâu bay gấp gấp”. Thay vào đó là “Mây vẩn từng
không chim bay đi”. Giữa hai bài thơ có sự trd lại củạ một số hình ảnh. Nhưng
chúng được đặt trong những cảnh huống thật khác nhau. Nếu ở Thơ duyên, mây
là “mây biếc” và chuyển động theo cách “bay gấp gấp”, thì mây ở Đây mùa thu tói
là “mây vẩn từng không” , mây đứng im hoặc quanh quẩn một chỗ mà thôi.
Cũng thế, nếu so sánh cánh cò ỏ Thơ duyên được dựng trong tư ihế “cánh
phân vân” , hẳn chưa bay thì cánh chim trong Đây mùa thu tới đã “bay đi”... Bằng
cách đặt hai từ “đã” ở đầu hai câu thơ ở khổ thứ ba, Xuân Diệu khẳng định thu đã
đến và đã ở lại đây rồi. Thu khiến cảnh vật đìu hiu. Thu xui lòng người nhung nhớ.
Thu khiến người ta buồn. Thu níu giữ bước chân người để xui những chuyến đò
vắng khách: “Đã vắng người sang những chuyến đò”. Thu của Đây mùa thu tói là
thu cô liêu, trống vắng, mênh mang,... nhưng chưa hề bước sang địa hạt của cõi
chết như tiếng lá khô rơi trong Tiếng thu (Lưu Trọng Lư).
Cây cối, hoa lá, trăng núi, gió mây và đến cả khí trời cũng đều góp mặt; (Khí
trời u uất hận chia li). Nhưng tất cả làm nền để xuất hiện bóng dáng con người.
Đương nhiên là thiếu nữ (với Xuân Diệu chắc chắn phải như thế) và phải là ‘1hiếu
nữ buồn” thì mới hợp với bầu không khí thu ấy:
ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì.
Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh con người. Mở đầu là dáng liễu, kết thúc là
dáng hình thiếu nữ. Liễu đứng đìu hiu như chịu tang. Thiếu nữ đứng (hẳn thế, vì tựa
cửa cơ mà), không đìu hiu nhưng lại “buồn” và “không nói”, suy cho cùng thì cũng
đều đìu hiu. Hình ảnh đầu cuối của bài thơ rất tương ứng.
Mặt khác, hình ảnh thiếu nữ được miêu tả vừa như là một khách thể của nỗi
37