Page 246 - Ngữ Văn Ôn Thi Tốt Nghiệp
P. 246

trên đôi vai mình", bản chất vốn là một con người giàu tình thương đã hi sinh tất cả
   vì tình thương  và trách  nhiệm  đôi với vợ con,  vậy  mà  đã  hơn  một lần  Hộ trút lên
   đầu vợ con nỗi uất ức khôn nguôi của mình, đối xử thô bạo với vợ con như một kẻ
   vũ  phu, để rồi  khi tỉnh  rượu  lại  hối hận, tự giày vò, xỉ vả  hành động của  mình.  Cứ
   như thế, trong con người Hộ bị giằng xé, chồng chất mâu thuẫn giữa lí tưỏng nghệ
   thuật chân chính với tình trạng buộc phải viết dễ dãi, cẩu thả để kiếm tiền,  giữa lẽ
   sống tình thương cao đẹp với  những  hành động thô bạo, đẩy anh vào bi kịch tinh
   thần không lối thoát.  Phát hiện và phân tích sâu sắc tấn bi kịch tinh thần đau đớn
   của  người trí thức  nghèo trong xã  hội  cũ,  Nam  Cao tố cáo gay  gắt cái xã  hội  đã
   đày đoạ con  người trong sự nghèo đói, vùi dập  những  ước mơ,  làm chết mòn  đời
   sống tinh thần và lẽ sống cao đẹp của con người. Mặt khác, khi miêu tả con người
   bị  đẩy  vào  tình  trạng  có  nhũmg  hành  động  tàn  nhẫn,  Nam  Cao  vẫn  dứt  khoát
   không  chấp  nhận  cái  ác,  kiên  định  giữ vững  nguyên  tắc  tình  thương  của  mình.
   Điều đáng quý là,  mặc dù sống trong đau đớn và bế tắc, có lúc mong muốn được
   giải  thoát  để  lo  sự  nghiệp  cho  riêng  mình,  nhưng  Hộ  không  chấp  nhận  sự tàn
   nhẫn, và cũng  không thể vút bỏ tình thương.  Nếu vứt bỏ tình thương đồng loại thì
   không còn được gọi là con người nữa. "Hắn có thể hi sinh tình yêu, thứ tình yêu vị
   kỉ đi;  nhưng  hắn  không thể  bỏ  lòng  thương;  có lẽ hắn  nhu  nhược,  hèn  nhát,  tầm
   thường, nhưng hắn vẫn còn được là ngưòi; hắn là người chứ không phải là một thứ
   quái vật bị sai khiến bỏi lòng tự ái". Cuối thiên truyện, khi tỉnh rượu, nhớ lại hành vi
   phũ phàng của mình đối với vợ, Hộ hết sức hối hận và đã khóc nức nở, "nước mắt
   hắn bật ra  như nước một quả chanh mà người ta bóp mạnh".  Lời nói nghẹn ngào
   đẫm  trong  nước  mắt  của  Hộ  là  lời  tự xỉ  vẳ  đau  đớn:  "Anh...  anh...  chỉ  là...  một
   thằng...  khốn nạn!...". Trong sáng tác của mình,  Nam Cao đã hơn một lần ca ngợi
   nước mắt, coi nước mắt là biểu tượng của tình thương, là "giọt châu của loài người",
   là  "miếng  kính  biến  hình vũ  trụ,...  Nước  mắt,  trong  nhiều  trường  hợp,  có ý  nghĩa
   thanh  lọc  tâm  hồn,  nâng  đỡ  nhân  cách  nhân  vật  của  Nam  Cao,  giữ  họ  không
   buông xuôi theo lối sống ích kỉ,  không rơi vào vực thẳm sa ngă, mà trái lại vẫn cố
   vươn  lên  để giữ vững  lẽ  sống tình thương.  Đời thừa  cùng  với  những  truyện  khác
   của  Nam  Cao  không  những  phản  ánh  chân thực tình  cảnh  và  số phận  đầy  khổ
   đau,  bế tắc của  người trí thức trong xà  hội cũ  mà còn  khẳng định sự chiến thắng
   của  lí tưởng  nhân  đạo.  Thông  qua  số phận có tính  chất bi  kịch  của  những Điền,
   những Hộ, những Thứ, Nam Cao đã đặt ra vấn đề có ý nghĩa muôn thuở: Sô' phận
   của nghệ thuật chân chính và lí tưởng nhân đạo cao cả trước thử thách nghiệt ngã
   của gánh  nặng áo cơm, trong một xã hội  ngột ngạt,  bế tắc.  cả  lí tưởng nhân văn
   cao đẹp, cả lí tưởng nghệ thuật chân chính đều có nguy cơ chết mòn trước sự tấn
   công dai dẳng,  quyết liệt của cái nghèo,  cái đói. Với ý nghĩa đó,  Đời thùa là tiếng
    kêu  khẩn thiết,  vượt ra  khỏi thời đại của  Nam Cao,  đòi hỏi xã  hội  phải tạo những
    điều  kiện thuận lợi để cho lí tưởng  nhân văn và  nghệ thuật chân chính có thể tồn
    tại và phát triển trên mảnh đất này.

                                                                          245
   241   242   243   244   245   246   247   248   249   250   251