Page 241 - Ngữ Văn Ôn Thi Tốt Nghiệp
P. 241
nhận định trên nhưng cần phải xét về cấp độ. Xưa nay chúng ta thường nhắc đến
kiểu giọng văn trắng trong Vụ án của Káp-ka và Người xa lạ của Ca-mút. ở đó,
người kể chuyện trần thuật lại các sự kiện (kể cả sự kiện của chính cuộc đời mình)
mà không hề tỏ bày chút xúc cảm nào. Còn Nam Cao khi gọi Chí Phèo là "hắn",
Thị Nở là "thị" thì đã tạo được thái độ khách quan lạnh lùng.
Song lạnh lùng chưa đến mức đoạn tuyệt như ở hai bậc tiền bối ấy bỏi lẽ: (1)
Tác phẩm còn nhiều đoạn miêu tả thiên nhiên (chẳng hạn, ánh trăng xộc xệch
theo chân ChO hoặc ngoại cảnh (tiếng thuyền chài đánh cá, giọng người đi chợ...).
Các cảm thản từ (trời ơi, than ôi) nên ít nhiều cảm xúc của người kể đã bộc lộ. Do
vậy, sắc thái giọng văn của tác phẩm, theo chúng tôi chỉ nên xếp vào hàng tương
đối "trắng" hoặc trung tính mà thôi.
Bao trùm lên toàn bộ Chí Phèo là kiểu giọng giàn 'tiếp của người kể phân tích
tâm lí nhân vật. Điều này mang lại hai hiệu quả;
1) Đối thoại trực tiếp của các nhân vật rất hiếm và phần lớn là bị hoà tan trong
lời dẫn dắt tâm trạng của người kể chuyện. Nếu tính số iượng lời thoại (xuất hiện
với dấu gạch đầu dòng) chúng tôi thống kê được năm mươi tham thoại.
2) Lời nửa trực tiếp xuất hiện nhiều xen tron^ nhữhg^biếh tấu giọng điệu đột
ngột. Hãy quan sát giọng của người kể chuyện và giọng của Thị Nở khi thị sang
nhà nhân tinh để "đổ cơn tức" bởi bị bà cô mắng: (a) "Thị giậm chân xuống đất rồi
nhẩy cẫng lên như thượng đồng, (b) Hắn thú vị quá, lắc lư cẩi đầu cười, (c) Lại còn
cười! (d) Nó nhạo thị, trời ơi! (e) Thị điên lên mất, trời ơi là trời". Phát ngôn (a), (b) là
lời miêu tả của người kể chuyện. Phát ngôn (c), (d), (e) thoạt tiên là lời phân tích tâm
trạng của Thị Nỏ, nhưng đọc kĩ chúng ta sẽ có các giọng sau: (c) là lời của Thị Nở,
(d), (e) (được in nghiêng) là lời của ngưòi kể chuyện. Nếu chúng ta nối các phần (c),
(d), (e) (không in nghiêng) thì có lời của Thị Nỏ: lại còn cười trời ơi, trời ơi là trời.
Tuy nhiên, việc phân tích rạch ròi này chỉ là một cách tiếp cận. Cách hiểu
khác là xếp các phát ngôn (c), (d), (e) vào kiểu lời nửa trực tiếp bởi ở đó giọng của
người kể chuyện và giọng của nhân vật cùng đan cài, hoà tan. Đặt các giọng gần
nhau hoặc xâm nhập lẫn nhau, Nam Cao đã thành còng trong việc khắc hoạ tính
cách nhân vật, trong việc sáng tạo lên một thế giới ngôn từ đổ vỡ. Và ba động của
ngôn từ ấy cũng là sóng đời bất trắc của thế giới thực tại đầy âu lo. Kĩ thuật này tuy
làm chậm tốc độ phát triển truyện song nó vẫn tạo ra được nét quyến rũ bỏi tâm
tính nhân vật được phô bày dần qua việc thay đổi giọng của những phát ngôn.
Khác với Bá Kiến, Chí có rất nhiều kiểu giọng mà tuỳ từng trường hợp để
mang ra đối phó. Chí có giọng bên trong của độc thoại, độc thoại nội tâm (những
toan tính trước cụ Bá, suy nghĩ về hành vi bóp chân cho bà Ba) và giọng bên ngoài
bao gồm; giọng của tiếng chửi, giọng tỏ tình, giọng của con người sợ sệt khi hơi
rượu đã tản mát bay, giọng dõng dạc của con người đòi lương thiện... Chỉ bấy
nhiêu kiểu qiọng cũng đủ ghi nhận tính chất cơ cùng của kiếp người này. Nhưng
240