Page 214 - Ngữ Văn Ôn Thi Tốt Nghiệp
P. 214

Lần  đầu  tiên  nhắc đến  Hà  Nội “khi  cả  nhà  bỏ  Hà  Nội về  quẽ ở vì thầy  Liên
   mất việc”,  trong  Liên  kí ức về  Hà  Nội  chưa xuất  hiện.  Nhưng  đến  lần thứ hai thì
   Liên đã “nhớ lại  khi ở Hà  Nội” và  Hà Nội được gợi lại từ mùi  phở của  bác Siêu, là
   “cốc nước lạnh xanh đỏ” (kí ức của trẻ con) là “một vùng sáng rực và lấp lánh”. Hà
   Nội đồng nghĩa với ánh sáng.
       Vì cái ánh  sáng  đó,  vì  nỗi truân chuyên  của  bao  cuộc đời  ngoài  kia,  vì  cám
   cảnh cho chính thân phận mình nên dẫu đôi khi “tâm hổn Liên yên tĩnh” sorig vẫn
   có “những cảm giác mơ hồ không hiểu”.
       Cảm  giác  mơ hồ ấy tồn  tại  trong  trạng  thái  động  bởi  nó  được  đặt trong  bối
   cảnh động.  Từ hình  khối, âm thanh đến sắc màu đều vận động.  Chiều vận động
   sang  đêm,  đêm vận  động  đến  khuya; ‘Irống thu  không”  đến ‘1rô'ng  cầm canh” ...
   tất cả  mọi chuyển động  ấy đều làm  nền để thêm  một ấn tượng  nữa đăng quang,
   vẫn  là  ánh  sáng,  nhưng  là  ánh  sáng  di  động.  Từ xa  là  chấm  sáng  đến  gần  là
   luồng sáng. Từ xa là con tàu, gần hơn và cận kề là con tàu - ánh sáng, nhưng qua
   đi cái con tàu mang luồng sáng kia lại là kí.ức, là mơ ước là khao khát, là thoả mãn
   nỗi nhung nhố Hà Nội rực ánh đèn. Con tàu mang chút niềm tin tương lai đến cho
   phố huyện.
       Trước  khi  con  tàu  xuất  hiện,  phố huyện  sống trong trạng  thái  uể  oải,  lơ  mơ
   ngủ, kém sinh khí và mọi hành động đều quy tụ ở tâm lí đợi tàu. Thạch Lam dành
   đến 852 chữ (gần một phần ba số chữ của tác phẩm; 852/2739) để tập trung khắc
   hoạ con tàu qua phố huyện. Con tàu đó là nguồn sống cả về vật chất lẫn tinh thần
   đối với dân phô' huyện. Đoạn phim phiêrr chợ nghèo buổi tối do Liên thủ vai chính
   kiêm đạo diễn được dựng theo lối rất cổ điển. Trong cái bóng  mênh mang ấy lần
   lượt từng người bán xuất hiện: trước tiên là chị Tí hàng nước,  sau là bác phỏ Siêu
   và cuối cùng  là gia đình xẩm.  Cả bốn  nhân vật đều  là  những  người  kiếm ăn cuối
   cùng trong ngày. Họ (trừ xẩm) đều được miêu tả từ xa đến cận cảnh. Trong khi đó,
   người mua thì ít hơn và không được dẫn dắt từ xa đến gần,  họ xuất hiện đột ngột:
   ngay sau câu nói “A, cô bé làm gì thế?” là tràng cười khanh khách của cụ Thi điên
   đến mua níợu ti (thứ rượu  hợp  pháp  mà thực dân  Pháp quy định cho dân ta thời
   đó);  mài  đến  khi tiếng trống  khuya  muộn  đánh  lên  thì chị Tí mới  có “hai,  ba  bác
   phu  ngồi  uống nưốc và hút thuốc lào”.  Còn với chị em Liên, sau cụ Thi,  chẳng có
   ai đến mua  hàng cả;  hàng phở “xa X?’  của bác Siêu thì bi đát hơn: chẳng thấy có
   người  nào mua.  Khung cảnh  mua  bán được chốt lại  bởi lời  kể (hay  hồi tưởng) về
   quá khứ, quá khứ rất gần; “Trước kia, ở sân ga, có mấy hàng cơm mỏ đón khách,
   đèn sáng cho đến  nửa đêm.  Nhưng bây giờ họ đóng cửa cả rồi,  cũng im lặng tối
   đen như ngoài phố” ...
       Nhưng  lối  kể có vẻ cổ điển này lại  phát huy sức mạnh ỏ ý đồ tạo ấn tượng ở
   Thạch  Lam.  Nghệ thuật lặp sự kiện,  hình tượng,  bằng  cách cứ lần  lượt cho nhân
   vật,  ngôn  ngữ,  hành  động  của  họ xuất hiện trở lại,  Thạch  Lam  khắc sâu  hơn  ấn


                                                                          213
   209   210   211   212   213   214   215   216   217   218   219