Page 21 - Ngữ Văn Ôn Thi Tốt Nghiệp
P. 21

VỘI  VÀNG

                                                                    XUÂN  DIỆU

       A. KIẾN THỨC BỔ TRỌ
           Bài  Vội vàng được viết theo phong cách chung của  một thế hệ thi  nhân xuất
       thân Tây học, trưỏng thài ;h vào những nàm 30 của thế kỷ trước được gọi chung là
       phong trào Thơ mới.
           Thơ mới vẫn được coi là một sự nổi loạn trong sáng tạo nghệ thuật nhằm, một
       mật,  khước từ luật thơ gò bó,  phản  ứng với quan  niệm cố (ĨỊnh về âm thanh,  vần
       điệu,  chông  lại  thói  quen  “đông  cứng”  văn  bản  thơ trong  những  cấu  trúc  đã trở
       thành điển ptiạm,  kiểu  ngắt nhịp đã trỏ thành công thức, cách dùng từ đã trỏ nên
       sáo mòn; mặt khác, nỗ lực đổi mới tư duy thơ trên nhiều phương diện. Chẳng hạn,
       mạnh dạn  rnở rộng  diện tích  bài thơ,  câu thơ, táo bạo trong việc thể  nghiệm cấu
       trúc  mới,  cú  pháp  mới,  nhịp điệu  mới,  từ ngữ mới  khai thác  nhiều tiềm  nàng  của
       tiếng  Việt  để  làm  giàu  nhạc tính  cho thơ.  Nhưng  điểu  quan  trọng  hơn,  nói  theo
       nhận xét của Hoài Thanh, tất cả chỉ nhằm để bộc lộ “cái nhu cầu được thành thực”
       trong xúc cảm và suy tư của một thế hệ.
       B. TIẾP CẬN TÁC PHẨM
             I-. “Vội vàng” - một ứng xử trước thời gian, một ứng xử nghệ thuật
           Vội  vàng được  in  trong  tập  Thơ  thơ (1938),  là  thi  phẩm  đã  thể  hiện  cực  kỳ
       sông  động  và  tài  hoa  những  cảm  nhận  mới  mẻ  của  Xuân  Diệu  về  cuộc  đời  và
       thiên nhiên, về tuổi trẻ và tình yêu, về thời gian, đồng thời cũng tuyên bố một quan
       niệm sống đây tính tích cực.
           Qua  bài thơ,  người đọc có thể nhận  ra  nhiều  điểm đặc trưng cho  nghệ thuật
       thơ Xuân  Diệu:  giàu cảm xúc,  lắm lí lẽ,  nhịp điệu  sôi  nổi,  bồng  bột,  cách tổ chức
       hình ảnh độc đáo, lối diễn tả  Tây một cách vừa cố ý, vừa tự nhiên...
           Vội vàng được mở đầu bằng một khổ thơ ngũ ngôn, rắn rỏi và rnạnh mẽ;
                         Tôi muốn tắt nắng đi
                        Cho màu đừng nhạt mất;
                         Tôi muốn buộc gió lại
                        Cho huơng đừng bay đi.
           Gần như đây là khổ thơ đã tháu tóm được tinh thần của cả bài.  Cài tôi của nhà
       thơ (cũng là cái tôi cá  nhân - cái tôi bộc lộ ý thức cá  nhân)  khốnq ém  mình,  nép
       mình vào đâu hết, mà lừng lững hiện diện, đứng án rígữ ngay cửa ngõ vào thê giới
       thơ.  Ta  đọc  thấy  ở  đây  một  sự tự tin  lớn  cùng  với  một  ước  muốn  dị  thường:  tắt
       nắng,  buộc gió,  cản  lại  sự vận  hành theo quy luật của  vũ trụ. Vì đâu  nhà thơ trỏ
        nên “ngông  cuồng”  như vây?  Lời  giải thích -  không  đợi  người  đọc  phải  ngẩn  ngơ
       suy đoán - đã được nói rõ trong chính các câu thơ ấy. Tất cả bị quy định bởi nghịch

        20
   16   17   18   19   20   21   22   23   24   25   26