Page 201 - Ngữ Văn Ôn Thi Tốt Nghiệp
P. 201

của Liên, người kể chuyện  ngôi thứ ba  miêu tả: “An bỏ bao diêm xuống bàn cùng
       chị ra  ngoài chõng  ngồi”.  Hoá ra Liên vẫn chưa ra ngoài, vẫn ở ‘1rong cửa hàng”.
       Tại sao có sự khập khiễng ấy?  Phải chăng là tại sự quan sát vụng về của Thạch
       Lam?
           Tiếp theo là cảnh “chị Tí phe phẩy cành chuối khô đuổi ruồi bò trên mấy thức
       hàng” trong đêm khuya muộn. Trường hợp ruồi xuất hiện trong đêm tối là rất hiếm.
       Chỉ có hai  khả  năng xuất hiện ruồi vào ban đêm:  một là  ruồi ở nơi ấy rất nhiều  pí
       do này khả  dĩ vì đấy là  phố chợ song hàng chị Tí thì không có nhiều thứ hấp dẫn
       ruồi và động tác phe phẩy cành chuối của chị thì gợi sự hình dung một khung cảnh
       ban ngày hơn là ban đêm],  hai là đèn nơi ấy rất sáng [vì có đủ ánh sáng  như ban
       ngày thì ruồi mới hoạt động]. Song đèn của chị Tí thì khó có thể mà sáng rực được
       bởi  nó  chỉ  “chiếu  sáng  một  vùng  đất  cát”  nhỏ  nhoi.  Phải  chàng  Thạch  Lam  đã
       quên bẵng mất thời gian?
           Thêm nữa, tất cả nhân vật trong truyện đều chỉ có têni cộc lốc mà không có họ
       và tên đệm:  An,  Liên, Tí,  Siêu, Thi,... Tác giả gội cô bé Liên là “chị” ,  đặt tên cho
       tác  phẩm  là  “Hai đứa trẻ”  [chứ không  phải là Hai chị em]...  Rõ ràng ỏ đây đã có
       dụng ý, chẳng phải vì tác giả non tay nghề mậ nảy sinh ra các hiên tượng lệch lạc,
       không trùng  khớp về nguyên tắc tự sự kiả.  Lạỉ nữa,  phải đi vào câu chữ thật kĩ ta
       mới  phát  hiện  ra  những  hiện  tượng  phí  lô-gích  đó  [bằng  chứng  là  kể  từ  khi  tác
       phẩm ra đời cho đến nay (trong phạm vi đọc của bản thân) chúng tôi chưa thấy có
       ý kiến nào trong số hàng trăm công trình lớn nhỏ nghiên cứu về Thạch Lam và Hai
       đứa  trẻ chỉ  ra  các chi tiết  phi  lô-gích  này].  Còn  nếu  cứ thẩm  văn theo cách  bình
       thường thì chắc chắn mọi chi tiết kia đều không có gì là phô là lỗi với toàn  bộ nội
       dung  lẫn văn  cảnh.  Rõ  ràng ở đây, Thạch  Lam đã  làm  được điều  mà  bất  kì  một
       nhà cách tân lớn nào cũng mong đợi; thay đổi tập tục đọc của độc giả. Vậy thì phải
       cắt nghĩa sao đây?
            Phải chăng  là tại  cái bóng đêm tối sầm  kia  nuốt chửng  mọi cảnh  vật,  tương
        ứng với bao kiếp lầm than? Phải chăng ánh sáng con tàu xoá  mờ mọi cách ngăn
        để  mơ  ước  khôn  nguôi  cháy  bỏng  trong  bao  mảnh  đòi  lay  lắt  kia?  ấn  tượng  về
        bóng đêm hay ấn tượng về ành sáng chi phối linh hồn truyện?
                                            *

            Hiển nhiên,  không ai có thể phủ  nhận hoặc nảy sinh sự nghi ngờ về thiên tài
        của  Thạch  Lam  qua  thiên  truyện.  Nhưng  cũng  như  mọi  truyện  ngắn  trác  tuyệt
        khác, Hai đứa trẻ không chấp nhận một cách cắt nghĩa, một kết luận cuối cùng về
        nó,  mà  mãi mãi chân lí truyện sẽ vẫn luôn còn đó, tồn tại phía trước hoặc luôn đi
        trưốc tư duy của người đọc (chí ít là người Việt Nam). Đây là kiểu truyện ngắn điển
        hình cho lối viết mở.  Nó rất gần với Sê-khốp ở chỗ:  điều gì đó có thể xảy ra,  sấp
        xảy ra song chẳng hề xảy ra trong truyện (ý Paperny) và cũng gần với  Ray-mơn
        Ca-vơ ỏ chỗ:  bản chất bình dị và nhẫn nại của cuộc sống luôn chứa  đựng  nhiều


        200
   196   197   198   199   200   201   202   203   204   205   206