Page 199 - Ngữ Văn Ôn Thi Tốt Nghiệp
P. 199
này đi áp bức một dân tộc khác. Điểu đó thặt phi lí. Và càng phi lí hơn, núp dưới
chiêu bài “khai sáng” , ‘Iruyền bá văn minh” người Pháp cho dân An Nam cái
“quyền” ... “uống nhiều rượu” và “hút nhiều thuốc phiện” . Câu hỏi bỏ lửng của
Nguyễn ái Quốc ỏ đây thật là mỉa mai, đau xót. Từ khung cảnh ấy tác giả gợi lại
chuyện vua Thuấn, vua Pi-e. Đây cũng là phép đối thoại nữa của văn bản. Nếu
đối thoại giữa vua An Nam và Tổng thống Pháp là kiệu đối thoại tương đồng; cả
hai đều bịp bợm, thì đối thoại giữa vua An Nam và hai vị Thánh vương trên được
đặt trong thế tương phản. Điểm giống nhau giữa họ là cải trang để vi hành. Vua
Thuấn cải trang làm dân cày. Vua Pi-e cải trang làm thợ. Trong lúc cải trang, các
bậc vua hiền ấy đều thực hiện mục đích cao cả. Vua An Nam thì không cải trang
và việc vi hành của ông ta cũng là do đôi trai gái Pháp kia tự nghĩ ra mà thôi. Từ
đầu đến cuối, ông vua ấy không hề có một thay đổi nào, trước sau ông ta vẫn cứ
trong lốt vua, vẫn cứ đạp lên nỗi đau của dân tộc để tận hưởng lạc thú cho riêng
mình. Đối lập với vua Thuấn và vua Pi-e, vua An Nam càng thêm thảm hại, đáng
cười.
Điểm đáng lưu ý ỏ câu chuyện này là tại sao đôi trai gái người Pháp kia không
nhầm lẫn một ai khác mà lại nhầm lẫn chính tôi (trong trường hợp này tôi ấy rất có
thể là Nguyễn ái Quốc) là hoàng đế An Nam? Dòng chảy ngầm của mạch truyện
đã thực hiện một cú hoán vị độc đáo. Nếu Tõi - người chiến sĩ vì độc lập tự do cho
dân tộc ấy trong mắt dân mẫu quốc là vua thì bất cứ ai vì dân tộc cũng sẽ là vua
theo nghĩa vi hành chân chính.
Câu chuyện, toàn bộ không một lần nhắc đến cái tên Khải Định. Tác giả chỉ
sử dụng các cụm từ để định danh “hắn đấy” như sau: “đấng Hoàng thượng”, “anh
vua”, “nhà vi hành” , “ngài”, “hoàng để’. Những đại từ này gián tiếp nhắc đến ông
vua An Nam chứ chưa một lần Vi hành gọi trực tiếp ra. Do vậy, vị vua ở đây là
hoàn toàn phiếm chỉ. Nguyễn ái Quốc không gọi ông vua ấy là Khải Định. Các nhà
nghiên cứu theo khuynh hướng Xã hội học, đối chiếu thời điểm xuất hiện văn bản
và thời điểm lịch sử cụ thể của Việt Nam để xác định vị vua vi hành ấy là Khải
Định. Điều này đúng nhưng nếu chỉ tập trung phê phán Khải Định không thôi thì sẽ
làm nghèo đi những tầng ý nghĩa uyên thâm của câu chuyện. Không đề cập đến
một cái tên của một vị vua cụ thể nào, Vi hành sẽ là chuyện mang ý nghĩa đối
thoại với cái xấu, thói ích kỉ, sự đồi bại của con người nói chung.
Nhân Khải Định sang Pháp dự Đấu xảo thuộc địa Mác-xây (1922), Nguyễn ái
Quốc viết Vi hành. Chuyện tập trung phê phán một ông vua bù nhìn nhưng bối
cảnh truyện thì rộng mở hơn nhiều. Tác giả đã để cập đến những vấn đề mang
tầm quốc gia và nhân loại. Dưới hình thức thư, Vi hành là câu chuyện cười ra nước
mắt của cảnh ngộ làm một người dân nô lệ. Tiếng cười của Vi hành vì thê đã bao
hàm ý nghĩa thức tỉnh. Và nhờ đó, Vi hành sẽ trường tồn theo thời gian.
LÊ HUY BẮC
198