Page 169 - Ngữ Văn Ôn Thi Tốt Nghiệp
P. 169

Trong sáu khổ, thì “tôi” là chủ âm của năm khổ, bà tôi là chủ âm của duy nhất
      một khổ (khổ thứ năm). Việc thay đổi chủ âm lập tức tạo nên thảm hoạ. Bà là chủ
      âm đồng nghĩa với việc trong tâm hồn tôi bà đã rời toà sen của  Phật, trở về với củ
      dong  riềng, trở về với cuộc sống đòi thực với bao gian khó não lòng:  nhà  mất,  đi
      bán trứng ga Lèn.
          Mạch vận động của  hình tượng thơ bắt đầu từ quá  khứ đến thực tại (đĩ nhiên
      vẫn là thực tại trong quá khứ). Trên nền cảm xúc “kể lại” nhưng vẫn có sự đan xen
      lời bình vào đó. Sau khi tái hiện cả khoảng trời cổ tích trong hai khổ thơ đầu, lời tự
      thú xuất hiện: “Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế” và thế là cả thế giới thần tiên vỡ tan.
      Củ  dong  riềng  trở  lại  củ  dong  riềng.  Chỉ  còn  mãi  “mùi  huệ  trắng,  hương  trầm”
      phảng phất như níu kéo trong bất lực, cái hạnh phúc nhỏ nhoi của một thời.
          Bài thơ hấp dẫn người đọc ở ngay cái hạnh phúc bị đánh mất ấy.  Dụng ý của
      nhà thơìập trung vào cái tuổi thơ êm đềm bị đánh mất. Cái chua xót không hoàn
      toàn đến từ thế giới  bên  ngoài mà còn  đến từ quy luật vận  động  nội tại của  hình
      tượng,  của  cuộc đời.  Tuổi  thơ rồi  sẽ  qua  đi.  Nhận thức con  người  rồi  sẽ  lớn  lên.
      Nhưng những gì đã mất vĩnh viễn không thể quay lại. Dau thực tại,  nhà thơ yêu bà
      biết mấy nhưng bà đâu còn để nhà thơ bày tỏ nỗi lòng. Chút xót xa cho nhận thức
      chợt  thức  của  mình  cũng  là  nỗi  đau  xót  cho  mọi  kiếp  đời.  Con  người  ta  thường
      nhận ra bao điều hữu ích thì luôn đã quá muộn, chỉ còn là đồng vọng, tiếc nuối mà
      thôi:
                      khi tôi biết thương bà thì đã muộn
                      bà chỉ còn là một nếm cỏ thôi.
          Bản chất của  sự giải thiêng trên và cả sự nhận thức đầy ân  hận trong  muộn
       màng của nhà thơ với tư cách là một người cháu yêu bà không phải chỉ dừng lại ỏ
       khoảng trời  riêng tư ấy.  Hệ thống hình tượng ẩn dụ của  bài thơ còn chạm đến cả
       những  suy  tư sâu  sắc về  cuộc  đời.  Hình  ảnh  người  bà  là  hiện  thân  của  cổ tích,
       Không có cổ tích con người không có tuổi thơ. Không có tuổi thơ con người trở nên
       què  quặt,  bệnh  hoạn...  Hình ảnh  bom  Mĩ,  với cả  sự gắn  kết tội  ác và  việc đi lính
       của  tối  để tiễu  trừ cái  ác,  là  hình  ảnh  ẩn  dụ  cho  mọi  cái  ác  nói  chung.  Thế giới
       không êm đềm như cổ tích mà luôn có sự rình rập, tàn hại của cái ác, con người ta
       cần sớm tỉnh ngộ kẻo không thì phải ôm cả mối ân hận, giày vò khôn nguôi lúc đã
       quá muộn màng.
           Nhan  đề  bài thơ là  “Đò  Lèn”  nhưng  ta  chẳng thể tìm  thấy  được  bến  đò  hay
       con đò ấy trong thơ. Chỉ có “ga Lèn”.  Bến đò và  nhà ga,  phải chăng là ẩn dụ cho
       những  phương tiện  đưa  con  người  vượt thoát “bến  mê”  theo  quan  niệm  của  nhà
       Phật mà nhà thơ sử dụng hình tượng mấy lần trong thơ?
           Hoặc giả  đấy là  bến  đò  kí ức,  kí ức đẹp  nhưng  buồn  về  một cuộc đời  buồn,
       mãi neo đậu những kỉ niệm khống phai của một kiếp người.
                                                                   LÊ HUY BẮC


       168
   164   165   166   167   168   169   170   171   172   173   174