Page 168 - Ngữ Văn Ôn Thi Tốt Nghiệp
P. 168
đây cũng chính là chỗ phô diễn tài năng thiên bẩm: từ bà, Phật, chùa ấy, tác giả
đã tạo được sự tương phản để gắn kết hình tượng thơ thành một khối thống nhất,
mới lạ.
Đây chính là nét độc đáo của bài thơ. Nếu xét kĩ thì hầu hết các hình tượng thơ
chẳng có gì mới cả. Mạch thơ thì lại bình lặng trôi theo kiểu “Mưa đổ bụi êm êm
trên bến vắng” của Anh Thơ và kể lể theo cách của Nguyễn Bính đã làm (chỉ khác
đây không phải là thơ lục bát). Ngay đến câu: “Dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi”
hay câu kết về hình tượng đời người “nấm cổ”,... chẳng có gì mới nếu không nói là
“sáo”, thi vẫn cứ thấy hợp với mạch thơ một cách lạ kì.
Chính nhờ cái giọng điệu bên trên là bỡn cợt, bên dưới là chua xót; nhờ lối
cảm xúc hai tầng: bên trên là vô tư, vô lo, bên dưới là sự thấu hiểu đời đến tái tê;
nhờ cách sử dụng ngôn ngữ bên trên là cũ mòn, những bên dưới là cả sự dụng
công... Nghệ thuật đạt đến đỉnh cao thì lại trở nên bình dị. Thơ Nguyễn Duy là vậy.
Vậy ra, từ những cái bình thường, từ những điều thường nhật, từ một câu
chuyện kể về quá khứ thơ mộng vỡ tan vì chiến tranh, không hề có sự gượng ép,
nhà thơ đã gắn kết chúng thành nghệ thuật. Chúng trở nên thuộc về nhau một cách
quái lạ và thuộc về bản lĩnh thơ độc đáo Nguyễn Duy.
Việc bà mò cua xúc tép, bà gánh chè đi bán, bà đi bán trứng,... vẫn là công
việc thường nhật của rất nhiều phụ nữ Việt Nam. Thê' nhưng chỉ cần đặt trong
tương quan với các địa danh (có rất nhiều địa danh) và đưa thêm vài chi tiết, vài
cách dùng từ khác đi là nhà thơ đã biên chúng thành của riêng mình: “Quán Cháo,
Đồng Giao thập thữhg những đêm hàn”.
Có hai thế giới tồn tại trong tâm khảm “tôi”. Thế giới của tiên Phật và thế giới
của bà. Hai thế giới hoàn toàn tương phản. Tuổi thơ, ‘lôi” cố hoà nhập hai thế giói
ấy lại với nhau:
Tôi trong suốt giữa hai bờ hư- thực
Giữa bà tôi và tiên, Phật, thánh, thần
Và quả thực, ‘1ôr đã được sống trong cái thế giới hoà nhập ấy. Nơi đó là hạnh
phúc vô biên. Chỉ khi hai thế giới ấy tách ra, trả bà tôi về lại cuộc đời, trả ‘1òi” về lại
với bà trong thức nhận cay đắng, thì nỗi cơ hàn đã dậy khắp trang thơ.
Có sự hạ bệ thánh thần. Nhưng điều đặc biệt ở đây là; hạ bệ trên cơ sỏ không
tuyệt đối phủ nhận. Phép giải thiêng này đồng nghĩa với việc khẳng định sựtrưỏng
thành của con người và cả sự trỗi dậy về nhận thức của người đó. Thế giới hương
trầm cổ tích sặc ảo vọng bỗng tiêu tan khi con người đối mặt với thực tại, sống
trong thực tại. Bài thơ là cả sự đánh thức nhận thức sâu sắc của con người về cuộc
đời. Thế giới này sẽ vĩnh viễn không bao giờ là cổ tích, cổ tích chì do ảo tưỏng của
con người mà sinh thành nên.
Bài thơ gồm sáu khổ. Mỗi khổ dường như tồn tại độc lập. Câu cuối mỗi khổ
giữ chức năng là “nhãn cú” của khổ thơ ấy. Câu kết của bài thơ (Bà chỉ còn một
nấm cỏ thôi) là “nhãn cú” cho toàn bộ bài.
167