Page 163 - Ngữ Văn Ôn Thi Tốt Nghiệp
P. 163

III- vẻ đẹp trí tuệ trong  Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên
            Chế Lan Viên  là  nhà thơ lãng  mạn, tác giả của tập thơ Điêu tàn rất nổi tiếng
        trước Cách mạng tháng Tám. Yêu nước,  òng đi theo cách mạng.  Hoà bình lập lại
        (1954), hoà mình trong bầu không khí sôi động,  mới mẻ,  ông sáng tác được nhiều
        bài thơ hay. “Tiếng hát con tàu” in trong tập thơ “ánh sáng và phù sa” (1960) được
        xem là một trong những đỉnh cao của thơ Chế Lan Viên.
            Bài thơ  mang tính thời sự,  được sáng tác để đáp lại  lời  kêu  gọi  của Đảng và
        Nhà nước kêu gọi mọi người đi khai hoang Tây Bắc. Bài thơ được sáng tác với xúc
        cảm chân thành và nồng  nhiệt, vùng đất tươi đẹp và anh  hùng của Tổ quốc hiện
        lên qua những hình tượng thơ lấp lánh ánh sáng của trí tuệ.
            Thi sĩ, chính xác hơn là tâm hồn thi sĩ đã  hoá thành con tàu  mộng tưởng,  dệt
        những ước mơ tươi đẹp lên vùng đất nhiều đau thương nhưng nặng  nghĩa tình, về

        với Tây Bắc là trở về với nhân dân mà cũng là trỏ về với chính lòng mình.
            Mở đầu bài thơ bằng lối tự vấn, nhà thơ bộc lộ sự trăn trở đầy triết lí trước một
        nhiệm vụ trọng đại của đất nước:
                         Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
                         Khi lòng ta đã hoá những con tàu
                         Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
                         Tâm hồn ta là Tày Bắc, chứ còn đâu
            Con tàu  ở đây là  con tàu  của  mộng tưởng,  vì  khi  ấy và  ngay cả  bây giờ vẫn
        chưa hề có đường tàu lên Tây Bắc. Nhưng con tàu ấy mang giá trị biểu tượng; gợi
        những chuyến đi xa, gợi những ước mơ lãng mạn,  hình ảnh thơ tràn ngập nhịp đi,
        hiên ngang, say đắm;
                         Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
                         Ngoài cửa ô, tàu đói những vành trảng
            Chất  trí tuệ  không  chỉ  có  trong  giai  điệu,  hình  ảnh  mà  còn  xuất  hiện  cả  ở
         những liên tưởng, so sánh giữa cuộc đời mênh mông với cảm xúc cá nhân nhỏ bé,
        giữa  sự khép mình và sự trải  rộng  lòng  mình ra với  nhân  dân, đất  nước.  Người đi
         khai  hoang Tây  Bắc chẳng  những  vì Tây  Bắc  mà  còn  vì việc  mở  rộng  cánh  cửa
         hẹp của đời sống, mở lối cho sáng tạo, cho ngọn nguồn thơ:
                          Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp
                          Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi?
                          Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép
                          Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia.
             Sự ra  đi  (đến với Tây  Bắc) đồng  nghĩa với trỏ về (với  nhân  dân).  Trở về “nơi
         máu  rỏ  tâm  hồn  ta  thấm  đất”.  Và  đất  đã  trở  thành  mẹ  thiêng  liêng,  “mẹ  yêu
         thương”  trong  gian  khổ  cần  lao.  Đây  là  cách  nhà  thơ  cụ  thể  hoá  cảm  xúc  của
         mình;
                          Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
                          Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa,

         162
   158   159   160   161   162   163   164   165   166   167   168