Page 159 - Ngữ Văn Ôn Thi Tốt Nghiệp
P. 159

anh và em mà còn là sự kết tinh của nhũmg tình cảm sâu nặng đối vối quê hương,
      đất nước.  Mạch thơ tưởng như đột ngột rẽ sang một hướng khác,  nhưng ki thực là
      khơi  sâu  thêm  cái  mạch  suy  nghĩ,  triết  luận  của  khổ thơ trước.  Nói  về  tình  yêu
      nhưng  lại hướng tới sự cắt nghĩa, lí giải,  làm  bừng sáng ý  nghĩa của  cả  đoạn thơ.
      Chế Lan Viên  đã  nói tới  phép  màu  của  tình  yêu.  Chính  tình  yêu  đả  biến  những
      miền đất xa lạ trỏ thành thân thiết như quê hương ta, hóa thành máu thịt tâm hồn
      ta. “Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở / Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn!”, ‘Tinh yêu làm đất lạ
      hóa  quê  hương”,  niiững  câu  thơ  cô  đúc  như một  châm  ngôn  chứa  đựng  những
      phát hiện sâu sắc về quy luật của tình cảm này không xuất phát,  không lấy điểm
      tựa từ trí tuệ sắc sảo mà chủ yếu được Chế Lan Viên kiến tạo trên cái  nền  những
      xúc động của chính tâm hồn mình, lắng nghe tiếng lòng của chính mình mà chiêm
      nghiệm ra  một chân lí phổ quát của  đời sống tình cảm con người.  Chính vì triết lí
      được  rút ra  từ tình  cám,  cảm xúc chân thành,  cho  nên  triết lí mà  vẫn  không  khô
      khan,  vẫn  tự nhiên,  dung  dị.  Đó  là  những  câu  thơ vào  loại  hay  nhất  của  đời  thơ
      Chế Lan Viên.


          Sự sáng tạo hình ảnh là  nét nghệ thuật đặc sắc của  bài thơ này.  Nhà thơ đã
      sáng tạo  ra  một  hệ thống  hình  ảnh  đa dạng,  phong  phú.  Có  những  hình  ảnh  thị
      giác  do  quan  sát  được  trong  đời  sống  thực  “bản  sương  giăng”,  “đèo  mây  phủ”,
      “chim  rừng  lông  trỏ  biếc”.  Có  những  hình  ảnh  được  miêu  tả  cụ  thể  đến  chi  tiết
      “Chiếc áo nâu suốt một đời vá  rách”.  Có nhữhg  hình ảnh thực nhưng lại giàu sức
      gợi “Con nhớ mế!  Lửa hồng soi tóc bạc”, có những hình ảnh được xây dựng thành
       những  hình  ảnh - biểu tượng  “con tàu” ,  “vầng trăng” ,  ‘Irái  đầu  xuân”,...  Chế Lan
      Viên là nhà thơ đã huy động hầu hết những thủ pháp nghệ thuật để tạo dựng hình
      ảnh.  Ông thường  có thói  quen  ‘1hiết kế”  những  hình  ảnh  kì thú,  mới  lạ,  độc đáo,
       hoặc là  xâu  chuỗi,  hoặc  là  tầng  tầng  lớp  lớp,  liên  kết vối  nhau  bằng  những  liên
      tưởng  bất ngờ,  có chiều sâu trí tuệ.  cùng với  nhũmg  hình ảnh  là  những ẩn dụ, so
      sánh được sử dụng  rộng  rãi,  đa  dạng và  linh  hoạt.  Thơ Chế Lan Viên  không thể
       nào trần  trụi,  mộc  mạc  được,  ông  là  nhà  thơ dùng  “văn  chương”  tới  mức tối  đa.
      Thói  quen  này gắn  liền với  quan  niệm  về văn  chương của  ông:  “Có  những  cách
       cày  bừa  tăng  năng  suất  cho  cây trồng.  Có  những  cách  dùng  chữ,  viết văn  tăng
       năng suất cho     Chính vì lẽ đó mà Chế Lan Viên luôn có ý thức tìm tòi, đổi mới
       hình thức thơ.  Và  khi  nào  những tìm tòi về  mặt hình thức ấy  hòa  hợp được với tư
       tưởng  sâu  sắc,  với  cảm  xúc  phong  phú,  chân  thành  thì  Chế  Lan  Viên  có  được
       những bài thơ có giá trị.

                                                           TRẦN ĐĂNG SUYỂN




       (1) Chế Lan Viên, Suy nghĩ và bình luận,  NXB Văn học, H.,  1971, tr.l27.
       158
   154   155   156   157   158   159   160   161   162   163   164