Page 107 - Ngữ Văn Ôn Thi Tốt Nghiệp
P. 107
III- Xuất xứ: Bên kia sông Đuống ra đời năm 1948. Khi giặc Pháp chiếm Bắc
Ninh, Hoàng cầm đang ỏ Việt Bắc. Xúc động trước cảnh quê hương bị tàn phá,
Hoàng cầm đã sảng tác nên bài thơ. Bài thơ được in lần đầu tiên trên báo Cứu
quốc vào tháng 6 năm 1948.
B. TIẾP CẬN TÁC PHẨM
I- Hồn thơ Kinh Bắc của Hoàng cầm trong Bén kia sông Đuông
Là một tác phẩm thơ trữ tình, Bèn kia sông Đuổng của Hoàng cầm lấy ‘Tmh là
gốc”, nên tứ thơ cũng được kết câu tư nhiên theo dòng chảy tâm tư, cảm xúc của
nhà thơ. Bài thơ để lại dư âm trong lòng độc giả bởi cấu tứ đặc biệt (sự song hành,
đan xen hai dòng mạch cảm xúc), bởi những hình ảnh thơ đẹp, giàu ấn tượng, bởi
nhạc điệu ngọt ngào, dìu dặt mang âm hưởng dân ca. Hồn thơ đậm chất dân gian
Kinh Bắc của Hoàng cầm toả sáng qua bài thơ độc đáo này.
1. vể hoàn cảnh ra đòi và chủ dề của bài thơ
Có những bài thơ ra đời là kết quả thai nghén, đúc kết những suy nghĩ, chiêm
nghiệm của thi nhân trong một khoảng thời gian dài (ví dụ bài thơ Đất nước của
Nguyễn Đình Thi được hoàn thành trong khoảng thời gian 1948-1955). Lại có
những bài thơ ra đời trong một khoảng thời gian rất ngắn, như một sự “đột hiện”,
sự thăng hoa, “bùng nổ” của cảm xúc. Bèn kia sông Đuống của Hoàng cầm là
một bài thơ như thế.
Bài thơ được viết vào một đêm tháng 4 năm 1948, khi Hoàng cầm đang ở
chiến khu Việt Bắc. Nghe tin giặc đánh phá quê hương mình, trong tâm trạng cực
kì xao xuyến, chồng chất nhũrng nhớ thương, nuối tiếc cùng niềm xót xa, căm giận,
nhà thơ đã chong đèn ngồi viết bài thơ này. Hãy nghe lời tâm sự của thi nhân về
hoàn cảnh sáng tác bài thơ để hình dung ra một tâm thế, một ‘Irạng thái trữ tình”
vò cùng đặc biệt: “Quá 12 giờ đêm tôi thắp đèn dầu sỏ ngồi viết. Viết một mạch,
có lúc cảm xúc trào lên mạnh, chỉ sợ viết không kịp với cảm xúc. Gọi li ruột mạch,
nhưng cũng đôi ba lúc như ngừng hơi, nin thỏ để nghe ngóng một điều gì, tuy
chàm điếu thuốc lào rít nhẹ nhẹ, nhưng toàn tâm trí vẫn đang cuồn cuộn trong cái
mạch từ đầu chảy ra, mỗi giờ một lởn ra và mạnh lên. Đến khi thấy hình như trong
người, các nỗi niềm đau đớn, nhớ tiếc, xót xa ấy đã được giải toả, tức là đến hết 4
câu thơ cuối cùng: “Bao giờ về bén kia sông Đuống... Cười mê ánh sáng muôn
lòng xuân xanh", tôi thở dài nhẹ nhõm, nước mắt rưng rưng suốt mấy tiếng đổng
hồ cũng như không còn ướt tròng nữa, tôi đặt bút thì đã nghe tiếng gà gáy sắp
sán^’\
1 Theo Đề học tốt văn 12 CCGD- Trường ĐHSP Hà Nội, 1992, tr. 39.
106