Page 112 - Nghiên Cứu Maketing
P. 112
12 Nghiên cíni marketing
Mặc dù có thể có những công thức dựa trên lý thuyết thống kê
có thể được sử dụng để tính toán kích thước mẫu, tuy nhiên, trên thực
tế vì những lý do thực dụng như ngân sách và thời gian hạn chế, các
nhà nghiên cứu thường ít áp dụng chúng. Ngược lại, họ thường tùy
biến như áp dụng cỡ mẫu giống như những nghiên cứu tương tự trước
đó, kinh nghiệm của chính mình,... Đây cũng chính là những lý do có
thể dẫn đen thực tế là trong nhiều cuộc nghiên cứu mẫu nghiên cứu
không đủ đảm báo để kết quả nghiên cứu trở nên đáng tin cậy và
chính xác.
• Xác định cỡ mẫu trong chọn mẫu phi xác suất
Quyết định về kích thước mẫu trong chọn mẫu phi xác suất
thường được xác định một cách chủ quan chứ không dựa theo công
thức tính toán như chọn mẫu xác suất. Người nghiên cứu quyết định
kích thước mẫu dựa vào một số căn cứ và yêu cầu cụ thể của cuộc
nghiên cứu. Song, với nhiều cuộc nghiên cứu, sự hạn chế về tài chính
là yếu tổ quan trọng nhất đối với việc xác định kích thước mẫu thích
hợp. Trong nhiều trường hợp, việc chọn cỡ mẫu phụ thuộc vào hiểu
biết chủ quan của nhà nghiên cứu. Họ sẽ chọn cỡ mẫu mà theo họ suy
đoán là đại diện cho tổng thể. Với một số nhà nghiên cứu khác thì một
mẫu nghiên cứu có qui mô mẫu lớn hơn 30 hoặc tương đương 1/10
của tổng thể sẽ tương đối an tâm là đủ lớn để phản ánh khá chính xác
về tổng thể.
Tuy nhiên, theo Hair & cộng sự (2013) và nhiều nhà nghiên cứu,
việc xác định cỡ mẫu trong trưòng hợp xác định mẫu khi nhà nghiên
cứu áp dụng phương pháp chọn mẫu phi xác suất phụ thuộc vào
phương pháp phân tích dữ liệu áp dụng cũng như số lượng các biến
(items) phải sử dụng trong phương pháp đó. Ví dụ, theo Hair & cộng sự
(2013), sẽ cần tối thiểu là mẫu nghiên cứu là 50 quan sát để nhà
nghiên cứu có thể tiến hành phân tích nhân tố, còn cỡ mẫu mong
muốn là 100 quan sát trở lên. Và nguyên tắc chung là sẽ cần cỡ mẫu
tối thiểu là 5 lần số lượng biến cho vào phân tích này. Còn theo
Nguyễn Văn Thắng (2015), qui mô thông thường để một nhà nghiên