Page 68 - Lý Thường Kiệt
P. 68
BẠI CHIÊM-PHÁTỐNG
núi rất rộng ở giữa hai bình nguyên lớn: Triền sông Lô (Nhị Hà) ở ta và
triền sông uất chảy xuống châu Ung (Nanning) ở Tống. Từ miền Cao Bằng
bây giờ sang đông, biên giới đã khá rõ ràng. Theo LNĐĐ và các sử, ta có thể
nhận thấy như sau. So với ngày nay, thì đến vùng Đông Khê, không khác
lắm. Từ đó ra biển, bắc ngạn sông Kỳ Cùng thuộc về Tống, gồm có châu Tây
Bình, Lộc Châu và huyện Thanh Viễn. Rồi tới chỗ gần bể, phần đất nước ta
còn ăn vào tỉnh Quảng Đông đến gần vịnh châu Khâm*®’. Còn về phía tây
Cao Bằng, dân Man ở thành từng động, không hẳn thuộc về ai; cho nên
biên giới có thể nói là chưa có. Nhưng ảnh hưởng Lý cũng tới vùng Bảo Lạc
và miền Yên Bái ngày nay.
Biên hạt Tống giáp nước ta gồm có các đất sau:
Đất KHÂM CHÂU giáp với châu Vĩnh An (tên cũ là Triều Dương, năm
1023 mới đổi), tức là vùng Hải Ninh, Mông Cái bây giờ.
Từ đó sang phía tây, hai nước cách nhau bằng một con sông nhỏ, là
sông Kỳ Cùng ngày nay. Các đất, kể từ đông sang tây, gồm năm trại: Thiên
Long, Cổ Vạn, Vĩnh Bình, Thái Bình, Hoành Sơn. Năm trại ấy đều thuộc
Ung Châu.
Trại THIÊN LONG giáp giới Khâm Châu, và có lẽ với phần tây châu
Vĩnh An. Trại c ổ VẠN gồm đất TU LẢNG và giáp châu Tô Mậu ở nước ta.
Trại VĨNH BÌNH gồm phần đất các châu TU MINH, BẢNG TUỜNG,
một phần TU LĂNG và phần đất ở bắc ngạn sông Ô Bì (Kỳ Cùng thuộc
Lạng Sơn). Đất gần sông có châu TÂY BÌNH (vùng Đồng Đăng và phố Lạng
Sơn) và châu LỘC (vùng Lộc Bình ngày nay). Trại Vĩnh Bình tiếp đất với các
châu sau này ở nước ta: Tô Mậu (vùng Na Dương, Đình Lập, An Châu),
huyện Quang Lang (vùng ô n Châu ngày nay), và châu Văn (vùng nam châu
Văn Uyên và châu Văn Quan, tức phố Bình Gia trong địa đồ Đông Dương).
Huyện Quang Lang và châu Văn thuộc châu Lạng.
Trại THÁI BÌNH, địa phận rộng, gồm có đất châu An Bình, châu Đống
(Thượng Đống và Hạ Đống), châu Long, đều ở phía đông những đất châu
Thất Nguyên, châu Môn (Đông Khê), châu Tư Lang (Thượng và Hạ Lang) và
75