Page 71 - Lý Thường Kiệt
P. 71
LÝ THƯỜNG KIỆT
vùng xuôi, quan Tống đã đặt ra những trại, tức là đồn ở biên giới chia dân
khê động và Hán dân. Đối với Tả, Hữu Giang và nuớc ta, Tống đã đặt năm
trại thuộc ưng Châu: Hoành Sơn, Thái Bình, Vĩnh Bình, c ổ Vạn, Thiên
Long, và hai trại thuộc Khâm Châu: Nhu Tích và Để Trạo.
Sau này ta sẽ thấy rằng, tất cả các việc lôi thôi giữa Lý và Tống đều bởi
những cuộc xung đột giữa các dân khê động, hoặc tự ý tranh giành, hoặc tự
triều đình Lý xui giục.
Nội trong các dân khê động trên đất Lý, họ Thân chiếm một địa vị đặc
biệt. Mục sau (IV/4) sẽ nói rõ. Ấy là dân động Giáp, thuộc Lạng Châu.
Họ Thân ba đời làm phò mã dưới triều Lý. Nguyên họ Giáp, sau đổi ra
Thân; chữ thân khác chữ giáp chỉ có thêm dài nét sổ lên phía trên.
Động Giáp chắc ở phần bắc tỉnh Bắc Giang ngày nay và phía nam ải Chi
Lăng<^>. Đất này là chỗ rất quan yếu. Nó chặn con đường lớn nhất từ Ung
đến nước ta. Mà đối với trại Vĩnh Bình của Tống thì có các đèo ải rất hiểm
thuộc huyện Quang Lang che chở. Muốn qua huyện ấy phải qua hai ải rất
hiểm; ải Quyết Lý kề phía bắc ô n Châu ngày nay và ải Giáp Khẩu, tức Chi
Lăng ở phía nam ô n Châu. Trong cuộc Lý Tống chiến tranh sau này, hai ải
ấy sẽ có công dụng rất lớn.
3. Họ Nùng và châu Quảng Nguyên
Quảng Nguyên là địa phận Cao Bằng bây giờ. Nay châu Quảng Uyên là
tên cũ đổi ra (theo ĐNNTC, cuối đời Hồng Đức đổi; nhưng có lẽ đời Mạc
tránh tên húy Mạc Phúc Nguyên). Tuy châu ở cách xa Thăng Long, ít ruộng,
rừng núi hầu khắp, nhiều thú dữ, khí độc, nhưng sẵn vàng bạc. Vùng Ngân
Sơn (nghĩa núi bạc), Nguyên Bình, Thạch An (ĐKĐD và ĐNNTC), xưa có lò
vàng bạc. Phía tây, thông với vùng Tuyên Quang, Hà Giang ngày nay;
chính đó có nhiều mỏ vàng, mỏ bạc, mỏ đồng, mỏ chì và thiếc (nhất là ở
vùng Tụ Long, bị mất vào Trung Quốc từ hồi thuộc Pháp, nay ở vào hơn 20
km trong tỉnh Quảng Tây về phía tây bắc Hà Giang). Vùng này có giống
Nùng (lấy họ Nùng), là một dân tộc đông và mạnh, ở rải rác từ Hữu Giang
và Tả Giang thuộc Quảng Tây cho đến châu Quảng Nguyên.
78