Page 70 - Lý Thường Kiệt
P. 70
BẠI CHIÊM-PHÁ TỐNG
hướng đông nam. Tả Giang phát nguyên từ chỗ giáp giới tỉnh Cao Bằng và
Vân Nam, chảy qua Cao Bằng, rồi theo chiều đông bắc, qua Quảng Tây và
hợp với Hữu Giang ở phía tây thành Ung Châu. Sông Ô Bì (Kỳ Cùng) là
một nhánh của Tả Giang.
Các họ Nùng, Hoàng, Chu,... ở trong triền hai sông ấy. Họ Nùng phần lớn
ở bốn châu: An Bình, Vũ Lặc, Tư Lãng, Thất Nguyên thuộc Tả Giang và ở
Quảng Nguyên, tức là trên đất Cao Bằng và đất phía đông biên giới Cao
Bằng ngày nay. Họ Hoàng ở về phía tây, thuộc Hữu Giang, nhất là ở bốn
châu An Đức, Quy Lạc, Lộ Thành, Điền Châu, tức là phía bắc và tây bắc biên
giới Cao Bằng. (LNĐĐ và QHNHC).
Sự phân biệt bằng địa điểm như thế không tuyệt đối đúng. Thật ra, các
họ ở lẫn nhau. Họ Nùng ở các châu phía tây đạo Đặc Ma (thuộc Vân Nam),
và họ Hoàng cũng ở phía đông đất Quảng Nguyên.
Hai đạo Tả và Hữu Giang gồm từ 50 đến 60 động (TS, QHNHC). Tù
trưởng các động ấy khi trước đều tự lập. Đời Đường có viên kinh lược Ung
Châu, Từ Thân Hậu, chiêu dụ; nên mới theo Đường.
Từ khi Tống lập nước, quan Tống coi Quế Châu, hay là coi Ung Châu,
đã tìm cách thu phục các khê động ấy. Nhưng thật ra cũng chỉ có các động,
gần các đồn binh Tống, theo. Còn các động ở xa, thì hoặc tự lập, hoặc chỉ
nạp cống ít nhiều lấy lệ, hoặc đã theo Lý. Các châu Vạn Nhai (Vũ Nhai ở
Thái Nguyên ngày nay), Vũ Lặc (ở Cao Bằng), Quảng Nguyên, đều nộp
cống cho vua Lý.
Nước ta nhỏ, nên đường đất từ kinh đô đến các khê động ấy không xa.
Lý kiểm soát vùng tây Tả Giang dễ dàng hơn quan Tống đóng ở Ung Châu.
Sử ta còn chép rõ các việc vua Lý hay các hoàng tử dẹp loạn ở vùng ấy*^^
Nhưng cũng có bộ lạc, thỉnh thoảng b ất bình vì một việc gì, đều bỏ đất này
qua đất khác. Vì thế, cương giới ở vùng này còn lưu động. Vua Lý rất quan
tâm mở cõi về vùng ấy.
Còn quan Tống, thì giữ thế thủ. Ấy bởi vì đối với Tống, đất nào cũng đã
cho là thuộc mình rồi. Cho nên, quý hồ dân khê động không quấy rối vùng
đồng ruộng dọc sông, quan Tống không cần hỏi đến. Muốn gìn giữ đất
77