Page 69 - Lý Thường Kiệt
P. 69
LÝ THƯỜNG KIỆT
châu Quảng Nguyên (Quảng Uyên) thuộc nước ta. Đến đời Lý Nhân Tông,
châu Thất Nguyên (Thất Khê ngày nay) tuy thuộc quyền Lý, nhưng thỉnh
thoảng cũng còn theo Tống (VIV3).
Trại HOÀNH SƠN gồm phần đất giữa biên thùy Cao Bằng ngày nay và
Hữu Giang. Những động giáp châu Quảng Nguyên ở đất ta là Hạ Lôi, ô n
Nhuận (bây giờ là Hồ Nhuận).
Nhìn biên giới Tống Việt trên bản đồ, ta sẽ thấy chỉ chừng một phần tư
biên giới Trung Việt ngày nay là khá định; nghĩa là ảnh hưởng Lý và Tống
tiếp xúc thực sự. Còn dư, về phía tây, đều thuộc những bộ lạc hầu như độc
lập. Ai mạnh, kẻ nấy cai quản.
Đường biên giới hình một đường cung, một phần tư vòng tròn, tâm ở
Ung Châu, một bán kính chỉ xuống phía nam, một bán kính chỉ sang phía
tây. Cái địa thế đất ta ôm đất Ung Châu là cái cớ quan trọng trong việc biên
dân thuộc ta hay quấy Ung Châu, và giúp thắng lợi cho cuộc tấn công vào
thành Ung Châu của Lý Thường Kiệt sau này.
2. Dân vùng biên giới
Hai bên biên giới, từ Bảo Lạc đến châu Vĩnh An, giáp Khâm Chầu, sinh
tụ nhiều dân tộc riêng biệt, không phải Việt mà cũng không phải Trung
Hoa. Cả hai nước Tàu và ta đều gọi chúng bằng tên chung: Man dân.
Thật ra, Man dân gồm nhiều giống khác nhau, có lẽ từ đời Tống, Lý,
đến nay không thay đổi mấy. Theo các sách và sử, ta sẽ phân biệt các dân ấy
bằng họ.
ở cực đông, có họ Hoàng ở hai mé biên giới, tại động Như Tích và châu
Vĩnh An. Họ Hoàng nhỏ nhưng đã từng làm châu mục ở Vĩnh An.
Họ Vi là một họ lớn, chiếm vùng Tư Lăng, Lộc Châu, Tây Bình ở Tống
và châu Tô Mậu ở ta. Các động trưởng ở vùng này đều họ Vi. Họ Vi có ba
họ khác, Nùng, Hoàng, Chu, là bốn họ mà Tống sử (TS 495), nhận là dân
khê động vùng Tả Giang và Hữu Giang.
Tả Giang và Hữu Giang là hai nguồn sông Tây Giang ở Lưỡng Quảng.
Hữu Giang phát nguyên từ Vân Nam, chảy xuống qua Quảng Tây, theo
76