Page 67 - Lý Thường Kiệt
P. 67

LÝ THƯỜNG KIỆT


          Khâm Tộ ở Tây Kết (tháng 3 năm Tân Tỵ 981), nước ta tránh khỏi ách Tống.
          Vua Tống phải nhận Lê Hoàn làm chủ ở nước ta (986).
              Phía bắc, Lê Hoàn đánh lui quân Tống, phía nam đại phá  quân Chiêm.
          Nước ta nhờ đó thành có cơ đồ khá vững vàng. Nhưng khoảng đất Hoàn cai trị
          không quá vùng trung nguyên*''. Còn miền thượng du thì hình như chưa ràng
          buộc gì cả. Tuy nhiên, biên giới miền đông bắc đã rõ ràng; và trên hai đường
          thông lộ lớn, từ châu Vmh An ở vùng Hải Ninh, Mông Cái**', đến Khâm Châu
          (Kintcheou) và từ huyện Quang Lang, là ô n  Châu, ở phía nam Lạng Sơn, đến
          Ung Châu (Nanrũng), thì hai nước kiểm soát cẩn thận*^'. Biên thần Tống thường
          thám thính tình hình nước ta, nhưng Tống còn bận việc bắc cương đối với Liêu
          (vùng Bắc Bình và Mãn Châu), Hạ (vùng Thiểm Tây), cho nên chưa muốn gây
          hấn với ta. Dẫu có khi dân ta sang quấy (995) mà Tống cũng làm ngơ*^'. Đến lúc
          Lê Hoàn mất, các con ữanh nhau ngôi, quan Tống xin đem quân sang đánh ta
          (1006). Nhưng vua Chân Tông vẫn không bằng lòng. Vua nói rằng: "Hoàn đã
          trung thành, ta không nên nhân y chết mà đánh. Vả núi sông Giao Chi hiểm trở,
          thủy thổ độc dữ. Có lấy được cũng vô ích"*'*' (TS 488 và TB 63/8b).
              Sau đó, vua Tống lại bằng lòng cho Lý Công uẩn nối nhà Lê. Tính rộng
          rãi của Tống Chân Tông đã tỏ rõ trong câu trả lời cho tả hữu về việc Công
          Uẩn  tranh  ngôi  Lê:  "Lê Hoàn bất nghĩa  mà  được nước.  Lý Công  uẩn bắt
          chước, rất là đáng ghét. Nhưng man tục như thế, không nên trách" (TS 488).
              Từ lúc Lý lập  nước  (1009),  ngoài việc các vương  toan cướp  ngôi Thái
          Tông, bên trong không có sự cạnh tranh khác. Cho nên các vua Lý rất chú ý
          đến việc biên cương phương nam và phương bắc.
              về phương nam, địa giới đã rõ ràng, vì có dãy núi Hoành Sơn ngăn đôi
          hai nước Chiêm và Việt. Dân Chàm cũng như dân ta, sinh nhai về cày cấy.
          Gần biên  giới  chung,  dân  ta  và  dân  Chàm  sống trên  hai  đồng bằng châu
          Hoan và Bố Chính cách xa nhau, nên ít sinh sự xâm lấn lẫn nhau,  trừ phi
          những vụ giặc bể Chàm vào cướp ven bể rồi bỏ đi mà thôi.
              Còn về phương bắc,  ngoài  hai  dân  tộc Hoa và Việt, có nhiều  dân  tộc
          khác mà cả hai nước đều gọi là Man (Thổ, Nùng, Mán...), chiếm miền rừng

          (•) Móng Cái. BBT.


                                            74
   62   63   64   65   66   67   68   69   70   71   72