Page 63 - Lý Thường Kiệt
P. 63

LÝ THƯỜNG KIỆT


          bính  trong tay:  văn và võ.  Vả, vì  đó, Thường Kiệt đã a  phụ Ỷ Lan  trong
          việc  tranh  giành  ngôi  thứ  với  Hoàng  Thái  hậu,  và  trong  việc  bức  tử  73
          nhân mạng.
              Đó là một vết đen trong trang sử xán lạn của Lý Thường Kiệt. Nhưng
          ông là võ tướng;  trong trận đánh Chiêm, cũng như sau này, trong các trận
          đánh Tống,  ông còn  hy  sinh biết bao  nhiêu  là  nhân  mạng nữa,  gấp  trăm
          nghìn lần sự bức sát này.
              Muốn gỡ tội ít nhiều cho Ỷ Lan, và có lẽ cho ông, ta nhận rằng đời Lý

          còn  giữ tục bắt các cung nhân chết theo vua. Xem như sau khi Ỷ Lan mất
          (1117), có ba thị nữ chết theo (TT và VSL), và sau khi vua Lý Nhân Tông mất
          (1127) cũng có cung nữ lên dàn lửa để chết theo vua (TT).
              Trên kia đã nói, sách TT không hề nói đến chuyện Lý Thường Kiệt cầm
          quyền tể tướng.  Chắc rằng, đời sau, khi Lê Văn Hưu hay Ngô Sĩ Liên viết
          sử, Khổng học đã thịnh, kẻ học giả đã dùng sử học làm một khoa luân lý;
          cho nên tự sửa chữa các việc cũ theo ý ấy. Thường Kiệt là một hoạn thần,
          mà hoạn thần xưa nay không được nho thần trọng. Nho thần lấy khoa cử
          xuất thân, coi hoạn thần như là đầy tớ trong cung. Vả từ cuối đời Hán về
          sau, các hoạn thần đã lạm dụng sự gần gũi cung cấm mà tiếm quyền, cho
          nên đời sau rất ghét hoạn quan cầm quyền bính. Có lẽ Lý Thường Kiệt cũng
          bị ghét lây. Sử gia cho ông không đáng chức tể tướng, cho nên tước khử sự
          ấy trong sử cũ mà không chép lại.

              2.  Liên kếỉ nhân tâm
              Vua gia phong cho ông chức Đôn quốc thái úy, Đại tướng quân, Đại tư đồ
          và ban cho hiệu Thượng phụ công. Thế là ông coi việc văn, việc võ, và kiêm cả
          chức cấm quan, "ông bấy giờ, trong thì cầm đại chính, ngoài  thì coi sư lữ.
          Dốc  một  lòng  lấy  sự  yên  xã  tắc  làm  vui.  Trong  ngoài  đều  được  yên  ổn"

          (NBS). Bấy giờ ông 55 tuổi (năm 1073).
              Sự yên ổn ấy chỉ có bề ngoài. Thật ra, ở biên thùy có nhiều triệu chứng
          chiến tranh. Năm sau (Giáp Dần 1074) Chiêm Thành lại bắt đầu quấy biên
          cảnh (TT) và dọc biên giới miền bắc, Tống cũng sửa soạn việc động binh.


                                             70
   58   59   60   61   62   63   64   65   66   67   68