Page 58 - Lý Thường Kiệt
P. 58

LÝ THƯỜNG KIỆT

           Thành (1044). Nay so với TT, ta thấy cũng chép việc Thái Tông, TT có nói: "Vua tới cửa
           Tư Khách, cá trắng nhảy vào thuyền" mà VSL lại chép: "Vua  tới cửa Tư Minh, cá trắng
           nhảy vào thuyền". Vậy Tư Minh tức là Tư Khách hay Tư Dung. Nhưng không hiểu vì cớ
           gì, mà lúc Thánh Tông đi, và lúc về, cách nhau có bốn tháng mà VSL lại gọi một chỗ đất,
           bằng hai tên khác nhau: Tư Dung và Tư Minh?
               Sách Ô C h âu   cận  lụ c (đời Mạc) chép tên núi Lỗi Lôi. Núi ở châu Bố Chính, gần cửa
           bể Di Luân (cửa Ròn). Núi Hoành Sơn chạy ra bể đến đó là hết.
              Sách ĐNNTC nói rõ là một hải đảo. Trên đảo có chùa, cho nên gọi là đảo Chùa. Vũng
           bể này có tên là vũng Chùa, là vì cớ ấy.
              Sách VSL chép:  ở gần cửa Bố Chính,  tức là cửa sông Gianh.  Cửa  Gianh và cửa Ròn
           cũng cách nhau không bao nhiêu. Huống chi sông Gianh là sông lớn, cho nên VSL chép
           như vậy. 6.
               Theo  HVDĐC, và các sách  địa  chí khác:  Các châu  ấy  chiếm  địa  phận  theo  như
           sau.  1/  Đ ịa   L ý:  đời  Lý đổi ra Lâm  Bình.  Trần  đổi  ra  Tân  Bình.  Lê Trung  Hưng đổi ra
           Tiên Bình. Nay thuộc Quảng Bình, gồm các huyện Lệ Thủy, Phong Phú, Phong Lộc. 2 /
           M a   L in h : Lý đổi ra Minh Linh. Minh đổi ra Nam Linh. Lê lập lại Minh Linh. Nay thuộc
           Quảng Trị, gồm hai huyện Minh Linh và Do Linh. 3/ B ố  C h ín h :  Minh đổi ra Trấn Bình.
           Lê đổi lại Bố Chính. Nay thuộc Quảng Bình, gồm các huyện Bình Chánh, Bố Trạch và
           Tuyên Chánh. 6.
              ” Võ chức đời Lý có: Độ nguyên soái, Tiết độ sứ, Đại tướng quân, Phó nguyên soái,
           Phó  tiết  độ,  Phó  tướng quân,  Nội  điện  chi  huy  sứ,  Chiêu  thảo  sứ,  Thiên  tướng, Thần
           tướng. Sáu chức đầu, chọn kẻ tông thất bổ nhậm. (ANCL).
              Sách LNĐĐ chép: "binh quan, thì đứng đầu có Khu mật sứ, Kim ngô Thái úy đô lĩnh
           binh." Đại loại các chức cũng theo Đường chế. 3.
              ^ Nay ở trước cửa chùa làng Bạch Á, huyện Nga  Sơn, còn có một tấm bia lớn, rộng
           1,12 m và cao 1,67 m. Trên khắc chữ Phật rất lớn. Xung quanh chạm rồng và hoa cỏ rất tỉ
           mi  và  đẹp.  Bia  không còn  chữ  gì  khác  nữa,  ngoài  bi  ngạch  "TRÙNG  TU  DIÊN  LINH
           CHÂN BÁO Tự BI". Lê Quý Đôn có nói đó là bia khắc chữ Phật của Lý Thánh Tông viết.
           Tuy theo cách  chạm trổ, thì biết là bia rất xưa, có lẽ đời Lý, nhưng không biết Lê Quý
           Đôn có lầm bia này với bia chùa Tiên Du chăng?
               Phật  Thệ  là  tên  Chiêm  Thành,  Hoàn  Vương  là  tên  Chiêm  Thành  mà  người  đời
           Đường đặt ra khoảng năm 756-757 (Tân Đường thư và LNĐĐ). Các tên chỉ nước này là:
           Lâm Ap, Phật Thệ, Hoàn Vương, Chiêm Thành, ơ  nước ta còn có tên L ôi (như nói thành
           Lồi, chúa Lồi) và tên Chàm. 7.
              “ Trong lúc Lý Thánh Tông vượt bể,  hình như có gặp sóng gió to.  Sách VĐUL còn
           chép chuyện thần H ậu   th ổ  địa  k ỳ giúp vua qua bể. Chuyện như sau: Khi Lý Thánh Tông
           đến cửa bể Hoàn (?), thình lình bão to mưa lớn, sóng nổi ngùn ngụt. Thuyền vua không
           tiến được. Đêm đến, vua mộng thấy một đàn bà, áo trắng, quần lục, nói với vua: "Tôi là
           tinh đất nước Nam, giả làm một cây gỗ đã lâu năm để đợi thời. Nay thời đã đến.  Giúp
           vua không chi đánh được giặc, mà nước nhà còn có chỗ nhờ." Nói xong, biến mất. Tỉnh


                                             64
   53   54   55   56   57   58   59   60   61   62   63