Page 54 - Lý Thường Kiệt
P. 54
LÝ THƯỜNG KIỆT
’ LNĐĐ, quyển 2, chép rõ về binh chế đời Lý, như sau: binh lính một tháng đi phen
một kỳ. Lúc rỗi thì cày cấy tự cấp. Mỗi năm, ngày mồng 7 tháng Giêng, mỗi tên lính được
phát 300 đồng tiền và một tấm vải quyến. Mỗi tháng, mỗi người lính được cấp 10 bó lúa.
Ngày đầu năm lại phát cơm nếp và cá mắm để khao quân.
Trong sách SK, Ngô Thì Sĩ cũng chép tương tự như trên.
ANCL chép: quân số không định trước. Tuyển dân tráng mà dùng. Lúc vội thì ra
lính, lúc rỗi thì về cày ruộng.
về việc tuyển binh, đời Lý kiểm điểm rất cẩn thận. Phan Huy Chú trong sách LTHC
viết: Dân đinh lên 18 tuổi, phải đăng tên vào sổ. sổ đóng bìa vàng. Cho nên hạng đinh
này gọi là h oàn g n am . Đinh trên 20 tuổi gọi là đ ạ i n am . Các đại nam đều có thể sung vào
lính. Các nhà quan chức chi có quyền nuôi một đại nam mà thôi để hầu hạ. Mỗi quân có
ba người bảo lĩnh; nếu ai giấu đại nam, thì cả bốn người đều phải tội. 2.
■' TT và VSL đều chép lầm chữ K ỷ ra chữ Ấ t vì tự dạng gần nhau. Sự lầm như nhau
chứng rằng hai sách đều bởi một gốc mà ra: Đ ạ i V iệt s ử k ý của Lê Văn Hưu. VSL chép
ngày bằng lối can chi, chứ không nói rõ số mục ngày trong tháng. Vì không biết phép
lịch dùng đời Lý, nên tôi không đổi ra ngày ta, mà chi dùng phép đổi ra ngày dương lịch
mà thôi (xem phép đổi trong báo Khoa học số 19 và 20). Nhờ sự đổi ấy, tôi đã thấy rằng
bản in VSL lầm ngày một vài chỗ, như ta sẽ thấy. 3.
® Lời thề: V i tử bất hiếu, v i thần bất tru n g , th ần m in h cự c chi (TT 2/15a). 3.
* Lý Đạo Thành làm Thái sư, tức là tể tướng, từ năm 1054 (VSL). Theo TT, bà Nguyên
phi coi chính quyền. Nguyên phi tức là Ỷ Lan. Ỷ Lan chỉ là phi. Bấy giờ còn có hoàng hậu
Thượng Dương, Vả sau khi Thánh Tông mất, quyền về tay hoàng hậu. Cho nên có thể
nghi rằng trong khi vua vắng mặt, quyền cũng giao cho Dương hậu. Vua Tự Đức đã phê
vào trong sách CM, đại ý cũng như thế. Nhưng bấy giờ Ý Lan mới sinh hoàng tử, được
vua rất yêu dấu. Nên có thể được vua giao tạm quyền. Còn sau này, hình như Thánh
Tông chết một cách đột ngột, không kịp dặn dò, cho nên theo lẽ thường, Lý Đạo Thành
đã cử Dương hậu chấp chính. Xem vậy, sự Thánh Tông giao quyền cho Ý Lan trong lúc
đi đánh Chiêm Thành, không phải là vô lý. 3.
’’ Tuy các sách không chép rõ đoạn đường này, nhưng đó là đường Thái Tông theo 25
năm về trước, và sau này cũng thường theo. Cửa Đại An trước có tên là Đại Ác hay Đại
Á. Lúc Thái Tông qua đó, bể không sóng, cho nên mới đổi tên Đại Ác ra Đại An (TT). Nay
huyện sở tại còn tên Đại An. 3.
® Xem thơ Lê Thánh Tông trong Thiên Nam dư hạ tập. Đoạn sông này có tên Sông
Nghèn. 3.
’ Theo Lê Quý Đôn trong sách P hủ biên tạ p lục: từ cửa Nhật Lệ đến cửa Minh Linh
(cửa Tùng) có bãi Đại Tràng Sa; từ cửa Việt đến cửa Tư Dung (Tư Hiền ngày nay) có bãi
Tiểu Tràng Sa. Bấy giờ cửa Thuận An chưa có. 3.
“ Cửa Tư Dung hẹp và sâu, là một cửa rất can hệ trong sự hàng hải ngày xưa. Trong
các đời Lý, Trần, Lê, mỗi lúc thủy quân xuống đánh Chiêm Thành, đều nghỉ ở đó. Chữ
60