Page 53 - Lý Thường Kiệt
P. 53
BẠI CHIÊM-PHÁ TỐNG
Tuy vậy, Phật giáo cũng không bị sao lãng. Tháng 9 năm ấy, dựng chùa
Nhị Thiên Vương ở góc đông nam thành, vua viết bia chữ Phậb^> cao một
trượng sáu thước, để lại tại chùa Tiên Du (Phật Tích, Bắc Ninh ngày nay).
Thanh thế nước ta bấy giờ rất lớn. Tống phải kiêng nể. Vua Tống luôn
luôn dặn biên thần đừng gây sự với ta. Còn Chiêm Thành, thì kính sợ và
thần phục, năm Tân Hợi (1071), sứ Chiêm tới cống (TT).
7. Kết quả
về việc đánh Chiêm Thành, bia chùa Linh Xứng chỉ chép rằng: "Kịp đến
lúc Phật Thệ*^'> hỗn phép không tới chầu, quân nhà vua rầm rộ sang đánh.
Ông có tài thao lược hơn người đời, vào trong cung giúp vua lo toan mưu
kế, đặt binh luật để đi đánh dẹp, Hoàn Vương (tức vua Chiêm) bỏ thành
chạy trốn, nhưng lại tự mình hiến thân chịu chém, ông bèn bắt lấy, rồi đem
quân khải hoàn. Vua luận công, gia thưởng và ban trật cho ông".
Tuy tóm tắt nhưng đó cũng đủ chứng rằng trong cuộc nam phạt, Lý
Thường Kiệt vừa làm tham mưu, vừa làm thống soái, ông đã có công lấy
thành, bắt chúa Chiêm, cho nên nước ta mới được nhường khoảnh đất ba
châu phía nam dãy Hoành Sơn. Trong cuộc nam tiến của dân tộc Việt Nam,
Lý Thường Kiệt có công đệ nhất, vì đã mở đường cho các đời Trần, Hồ, Lê,
Nguyễn sau. Trước đó, tuy Lê Đại Hành, Lý Thái Tông cũng có đánh Chiêm
Thành, nhưng mỗi lúc chỉ bắt người, lấy của rồi về, chứ không hề nghĩ tới
mở mang bờ cõi'^^*.
Chú thích:
‘ Chiêm Thành tới cống những năm: 1057,1059,1060,1063 (VSL). 1.
^ TT chép: năm ấy, châu Chân Đằng hiến hai voi trắng; cho nên vua đổi niên hiệu ra
Thiên Huống Báu Tượng, nghĩa là trời cho voi quý. TT lại chép thêm: "Chiêm Thành
hiến hai voi trắng, nhưng sau lại nhiễu biên giới". VSL cũng chép rằng: "Tháng Giêng
châu Chân Đằng hiến voi trắng. Châu Kỷ Lang (chắc là Quang Lang, VSL lầm chữ q u a n g
là sáng ra chữ kỷ là ghế, vì hai chữ tự dạng gần nhau) cũng hiến hai voi trắng. Tháng 2,
huyện Đô Lạp hiến voi trắng và công trắng". Xem vậy, VSL không hề chép việc Chiêm
Thành hiến voi trắng năm ấy. 1.
59