Page 56 - Lý Thường Kiệt
P. 56
LÝ THƯỜNG KIỆT
điện, có tháp. Nay điện đă bị đổ. Tháp còn 12 tòa. Tục gọi là tháp Con Gái hay tháp Cánh
Tiên". Trên đây là tả thành Trà Bàn đời cuối Lé.
Sách HVDĐC chép: "Thành Trà Bàn ở trên sông Phú Gia Đa. Hai tên Phú Đa và Phú
Gia Đa chắc là một". Có lẽ là tên Chàm phiên âm ra Phú Gia Đa. Sau rút ngắn tên mà gọi
tên làng. Bản đồ trong TNDĐC vẽ sông ấy chảy qua phía bắc thành.
Sách ĐNNTC chép: "Thành Trà Bàn ở chỗ giáp giới hai huyện Tuy Viễn và Phú Cát,
Chu vi dài hơn 60 dặm. Truớc là kinh thành của chúa Chàm. Nguyễn Nhạc chiếm và lấy
đá ong xây thành. Trong thành có tháp xưa, có tượng nghê đá, voi đá; đều là của người
Chàm xưa. Sau đại binh thu phục, đổi tên ra thành Bình Định, và đặt tinh lỵ ở đấy. Sau
(1808) dời tỉnh lỵ đến chỗ ngày nay".
Ngày nay, cách phía bắc thành Bình Định 10 km, trên đường thiên lý, còn thấy di tích
một thành cổ ở địa phận ba làng An Nghĩa, Nam An và Thuận Chánh. Thành đất, bọc
bằng đá ong. Hình chữ nhật, các mặt gióng đúng hướng. Mặt Đông và Tây rộng 1.400 m;
mặt Nam và Bắc rộng 1.100 m. Phía bắc thành có sông Khu Cương. Đường quan lộ xiên
qua góc đông bắc thành. Trong thành còn nhiều cồn đất, hình như ngày xưa có những
lâu đài hay tháp dựng trên. Thành nay đã đổ hết. Trong thành là ruộng. Còn vết một
đường đi từ cửa đông sang cửa tây. Chính giữa, còn có một tháp lớn, tức là tháp Con Gái,
hay là tháp Cánh Tiên, đã nói trên, ở phần phía tây thành có mộ và đền thờ Võ Tánh.
Trong thành còn có nhiều đá chạm, như hai con sư tử (nghê) trước mộ Võ Tánh, hai con
voi đá lớn ở trong vườn đền (phỏng theo Parmentier; in ve n ta ire d e s c r ip ti/ d es M o n u m e n ts
C am s de V A n n am ). Xung quanh thành đá ấy còn nhiều tháp. Các tạo tác ấy chắc là thuộc
thành Vijaya. Thành chu vi hơn 60 dặm, nói trong ĐNNTC, chắc là một thứ la thành bọc
xung quanh các tháp nói trên. Thành vuông mỗi bề một dặm nói trong TNTCĐ là thành
đá ở trong. 4.
’■* Sách ƯTDĐC chép thêm rằng: "Lý Thường Kiệt phong cho ba đoàn sư tử ấy chức
H iệu th u ận ta m th ần bá. Ngày tuyên sắc, sư tử nổi lên mặt sông để nghe. Nhờ đó, quân ta
qua sông không bị trở ngại".
ở Phan Rang (tên Chàm là Panduranga), có sông tên là K ro n B iyu h nghĩa là sông Cá
Sấu (theo Cabaton). Chắc rằng xưa sông này có nhiều cá sấu hơn các sông khác. Hoặc
giả, sông Phan Định của UTDĐC là sông này. Nếu thật vậy, thì sự Lý Thường Kiệt bị cá
sấu trở ngại là vào lúc ông đuổi vua Chàm tới biên giới Chân Lạp. 4.
M ú a khiên và đán h cầu là hai qu ân lễ để ăn mừng trong các hội lớn. Môn múa khiên
có lẽ đời sau còn hình dung trong các bài "đi võ". Còn môn đánh cầu là thế nào?
Chữ Hán chép "kích cầu", cầu là một đồ chơi làm bằng da, hình tròn, trong nén đầy
lông. Nói tóm lại, tức là quả bóng ngày nay, nhưng ruột đặc và đầy lông để cho nhẹ. Tuy
về đời sau, như đời Lê có chuyện một viên quan "đá cầu chúc thọ" chúa Trịnh; nhưng
trò chơi này là lấy chân đá cái cầu làm bằng một vật có chắp đuôi, như cầu trẻ con chơi
ngày nay bằng đồng tiền có đuôi giấy.
Môn đánh cầu trong quân khác hẳn thế. Đó là trò chơi mà Âu Mỹ gọi là Polo. ở Ấn
Độ cũng có từ đời xưa.
62