Page 57 - Lý Thường Kiệt
P. 57
BẠI CHIÊM-PHÁ TỐNG
T ố n g sử , (Q. 121, Lễ Chí, chép Đ ả cầu ), còn chép rõ cách thức chơi của nhà vua. Sân
chơi là sân chính điện, dưới thềm ngai vua, ở phía nam ngai. Hai bên tả hữu (đông và
tây) dựng hai cửa bằng gỗ, gọi là cầu m ôn cao hơn một trượng, trên chạm rồng, dưới đặt
tòa sen bằng đá dùng vải vóc trải trên. Chi có các bực vương và đại thần được dự chơi ở
trước bệ; họ chia ra làm hai phe. ở hai cầu môn có treo cờ n ỉìậ t và n g u y ệ t, dưới cờ đặt
nhạc. Hai phe mặc áo vóc, màu khác nhau; bên tả (đông) màu vàng, bên hữu màu tía.
Trước thềm cũng bày hai giá cờ; hễ bên nào được, thì cắm vào giá bên ấy một lá cờ.
Lúc bắt đầu đánh, sở tàu ngựa vua đem ngựa và yên cương ra. Vua lên ngựa. Ban
nhạc gầy khúc L ư ơ n g C h âu . Vua gọi từng người lần lượt lên ngựa. Đuôi ngựa gióc thắt
theo màu phe vàng hay tía. Các quan bắt đầu sắp hàng phía tây; vua đứng ở góc tây
nam.
Quan nội thị mở một hộp vàng, lấy quả cầu sơn đỏ, ném xuống trước điện, viên
thông sự xa nhân tâu: "phe vua đánh vào cửa đông". Vua tiến ngựa đánh cầu. Nhạc nổi.
Lúc cầu vào cửa, thì cờ phất, chiêng rền, trống dóng. Vua quay ngựa trở về chỗ. Các
quan chúc mừng, rồi vua ban rượu. Xong vua lại lên ngựa, lại đánh. Bấy giờ mới sai các
quan ruổi ngựa tranh cầu. Trống đánh rậy. Khi cầu gần tới cửa, trống giục càng mau. Lúc
cầu qua cửa thì trống dóng ba hồi. Rút cờ để sẵn bên cửa phe được, rồi cắm vào giá phe
mình để trước bệ. Như thế gọi là được một thẻ. Khi nào vua được thẻ, thì nhạc đánh nhẹ
bớt, để các quan hô "Vạn tuế"; khi nào một quan được thẻ, thì hô "hảo". Kẻ được thẻ,
xuống ngựa để tạ. Xong ba thẻ, vua lại mời các quan uống. Mỗi phe có 24 cờ. Có lẽ bên
nào được 24 thẻ trước thì được.
Trên đây là cuộc đánh cầu bằng ngựa. Cũng có lúc đánh cầu không cưỡi ngựa.
Tuy TS không nói rõ, nhưng ta cũng hiểu rằng, người ngồi trên ngựa, cầm cương một
tay; tay kia cầm cái trượng dài, mà đưa đẩy quả cầu, hoặc đánh mạnh vào cầu để chuyền
cho kẻ đồng phe, hay để cho vào cửa. Hình dạng cái trượng ấy chắc như còn thấy trên
một bức chạm bằng đá của dân Chàm, nay còn ở bảo tàng Đà Nằng. Bức chạm nổi ấy
gồm hai người Chàm cưỡi ngựa, tay phải cầm cương tay trái cầm trượng dài mà đầu cuối
cong và bẹt. Ngựa đeo đạc, mang yên, đuôi gióc như trong TS tả. Bức chạm này rất linh
động, người sau vừa đánh vào cầu, người trước kéo gò ngựa quay đầu lại rồi vắt tay ra
sau mà chặn cầu. Dáng điệu ngựa và người làm ta tưởng tượng như còn thấy cuộc đánh
cầu của vua Lý Thánh Tông còn diễn trước mắt ta. Biết đâu trong cuộc đánh cầu này,
vua Lý lại không bắt các quan Chàm bị cầm tù ra đánh làm trò vui? Nếu có vậy thì bức
chạm này lại nhắc được một hình ảnh của sự huy hoàng của tiệc mừng thắng trận.
Trò chơi ấy ở triều Lý có. TT chép; "Năm B. Ng (1126), mồng 1 tháng 2, vua Lý Nhân
Tông tới điện Thiên An xem các vương hầu chạy theo cầu mà đánh (ở đây TT chép; x ú c
cầu, xúc là chạy theo, xúc cầu nghĩa là chạy theo cầu mà đánh). Năm c. Tu (1139) tháng
Chạp, vua Lý Thần Tông đánh cầu (chép K ích cầu) ở sân Long Trì; vua bảo xứ Chiêm vào
xem". 6.
Cửa T ư M in h có phải là cửa Tư Dung không? Trong sử đời Lý, sách VSL có chép Tư
Minh hai lần: lần này (Thánh Tông trở về) và lần trước, khi Lý Thái Tông đi đánh Chiêm
63