Page 73 - Lý Thường Kiệt
P. 73
LÝ THƯỜNG KIỆT
Văn Thôn thuộc Hữu Giang (TT 13), ở đó do thám tình hình Ung Châu. Bấy
giờ có Ky Mân làm quan Tống bị biếm, phải đi tuần thú ở Ung. Mân muốn
lập công, bèn đưa quân đi tuần sâu vào man địa gần nơi Trí Cao đóng. Bị Trí
Cao bắt, Mân nói dối rằng được triều mệnh sai tới chiêu dụ. Trí Cao mừng, sai
bộ hạ đi theo Mân về Ung, dâng biểu cầu phong. Lại dâng vật báu; ngà voi,
vàng, bạc. Vua Tống lại từ khước, viện lẽ Trí Cao thuộc nước ta.
Trí Cao rất tức giận. Trong bị ta đánh, ngoài bị Tống từ. Mới định tâm
nổi loạn. Lại có tiến sĩ Hoàng Sư Mật thường qua lại Quảng Nguyên buôn
vàng, trở nên quen thuộc. Sư Mật vốn người Quảng Châu. Y tỏ bày tình
hình trong hạt mình cho Trí Cao nghe và nhận làm mưu chủ. Sau khi kết
đảng với bộ hạ của viên coi châu Ung, Trí Cao ngầm đốt hủy sào huyệt
mình, rồi hội quân mà nói rằng: "Của cải chúng ta, tích trữ cả đời, nay bị
thiên tai, đã hóa ra tro. Chúng ta không còn kế gì sinh sống nữa. Chỉ có cách
đánh lấy Ung Châu để tự lập". Quân chúng đều nghe theo. (TS 495).
Tháng 4 năm Hoàng Hữu thứ 4 (Nhâm Thìn, 1052), Trí Cao đem 5.000
quân, dọc sông Hữu Giang mà xuống miền đông, lấy trại Hoành Sơn (Điền
Châu bây giờ) vào tháng 4; rồi xuôi sông uất, xuống đánh thành Ung. Vì có
nội công, Ung mất ngày mồng 1 tháng 5 (A. Ti, DL 31-5-1052, TB 172/12a).
Trí Cao đặt quốc hiệu Đại Nam, tự xưng Nhân Huệ hoàng đế, cải
nguyên Khải lịch, rồi dọc theo sông Tầm, xuống sông Tây mà tiến tới Quảng
Châu. Các châu lỵ không có thành trì; quân Tống lại hèn nhát. Còn quân Trí
Cao là quân vong mạng, cho nên đến đâu được đó. Các châu dọc sông đều
lần lượt mất. Trong khoảng mười ngày, Trí Cao phá các châu Hoành (9-5),
Quý (12-5), Củng (16-5, nay là Bình Nam), Tầm, Đằng (17-5), Ngô (17-5, nay
là Thương Ngô), Phong (17-5), Khang (18-5, nay là Đức Khánh), Đoan (19-5,
nay là Triệu Khánh). Vừa trong hai tuần, mà từ Ung Châu, quân Trí Cao đã
đến Quảng Châu (22-5). Quân và tướng Tống đều sợ hãi. May có Vương
Hãn đóng thành chống lại. Trí Cao đánh suốt ngày đêm, trong 57 ngày,
không hạ được (TS 495); bèn rút quân lui. Ấy là ngày 18 tháng 7 (N. Tu, DL
16-8-1052; TB 173/lb).
80