Page 78 - Lý Thường Kiệt
P. 78

BẠI CHIÊM-PHÁTỐNG


      gia  uy  đức  sao,  hay  vì  nó  cậy  có  sông  núi  hiểm  trở?"  Các  quan  trả  lời:
      "Chúng tôi cho rằng tuy Bệ hạ có gia đức, nhưng uy chưa trương rộng. Ấy
      vì cớ đó. Từ khi Bệ hạ lên ngôi, nó trái mệnh không tới chầu. Tuy Bệ hạ thi
      bố  đức  huệ  để  tỏ  lòng yêu,  nhưng chưa  từng trương vũ  uy mà  đánh  nó.
      Không phải là làm như vậy mà kẻ ở xa sợ". (TT).
          Cũng vì lẽ ấy, mỗi khi có biên biến, các vua thường sai đại tướng, hoặc
      các hoàng tử đánh dẹp. Nhiều lần vua tự  thân chinh<^>.  Chuyện họ Nùng
      vừa  kể  trên  là  một bằng chứng.  Vùng  thường hay  có  biến  nhiều  nhất  là
      vùng Tuyên Quang, Thái Nguyên, Bắc Cạn, Cao Bằng ngày nay. Nhưng các
      châu ở vùng Đà Giang và Thao Giang cũng có lần phải dẹp.
          Với hai chính sách đức và  uy,  nhà Lý đã kết thúc được dân vùng bắc
      thùy.  Nhờ vậy,  cương vực  được  mở mang  dần  dần  sang  địa  phận Tả  và
      Hữu Giang; và lúc Tống định tiêu diệt nước ta, quân các phiên trấn đã giúp
      ta được phần lớn.




      Chú thích:

         ' Lê Hoàn chia đất cho các con cai trị như sau: 1/ Khai Minh vương LONG ĐĨNH coi
      Đ ằ n g  C h âu (vùng Kim Động). 2 / Ngự Man vương LONG ĐINH coi P h o n g  C h âu (vùng Sơn
      Tây, Phú Thọ). 3/ Ngự Bắc vương LONG CÂN coi P h ù   Lan  (vùng Văn Lâm, Mỹ Hào). 4/
      Định Phiên vương LONG TÚNG coi N g ủ   H u yện   G ia n g (Thanh Hóa). 5 /Tư Doanh Thành
      phó vương LONG TƯONG coi Đ ỗ  Đ ộ n g (vùng Thanh Oai, Thượng Phúc). 6/ Trung Quốc
      vương LONG CÁNH coi M ạ t  L iên (Tiên Lữ). 7/ Nam Quốc vương LONG MANG coi  V ũ
      L o n g  (Thanh  Hóa).  8/ Hành  Quân  vương  LONG  ĐẾ  coi  cổ L ãm  (Quế  Dương,  Đông
      Ngạn). 9/ Phù Đái vương (?) coi P hù   Đ á i (vùng Vĩnh Bảo, Vĩnh Lại).
         Trên  đây,  phần  lớn  theo CM mà  nhận định,  trừ Ngũ  Huyện  Giang  mà  CM  cho là
      sông Cà Lồ ngày nay. Xét các đất trên ta thấy các vương chỉ cai quản vùng đồng bằng mà
      thôi. Có lẽ các vùng khác có tù trưởng coi, nhưng các sách không thấy nói. 1.
         ^ Sách sử ta chép sơ lược đến nỗi bây giờ ta không biết hết tên các thành phần nước ta
      đời Lý. Sách LNĐĐ (Tống) chép: Giao Chỉ chia làm 4 phủ, 13 châu, 3 trại. Phủ có Đô Hộ,
      Đại Thông, Thanh Hóa, Phú Lương. Châu có Vĩnh An, Vĩnh Thái, Vạn Xuân, Phong Đạo,
      Thái  Bình, Thanh  Hóa, Nghệ An, Già  Phong,  Trà Lô, Yên  Phong, Tô Châu, Mậu Châu
      (sách TB chép châu Tô Mậu), Lạng Châu. Trại có Hòa Ninh, Đại Bàn, Tân Yên. Đại để thì
      Thanh Hóa, Già Phong, Nghệ An,Vĩnh An đều kề bể. Mà Vĩnh An giáp Khâm Châu, Trà


                                         85
   73   74   75   76   77   78   79   80   81   82   83