Page 322 - Lý Thường Kiệt
P. 322
vì DÂN - VÌ ĐẠO
Sau đây là cảnh chùa, khi đã hoàji thành.
"Chùa ở phía nam núi. Trai phòng ở hai bên. Tượng đức Phật Như Lai
sơn vàng, ngồi cao trên tòa sen, nổi lên trên mặt nước. Trên tường xung
quanh, vẽ mười sáu La Hán và các biến tướng, thiên hình vạn trạng. Không
thể kể xiết.
Sau chùa, xây bảo tháp, đặt tên là tháp Chiêu Ăn. Tháp cao chín từng,
đều trương bày lưới. Bốn mặt mở cửa, xung quanh có bao lơn. Bốn góc treo
chiêng vàng, rung trước gió, cùng chim núi kêu êm; phía trước dựng cột
biểu, ánh bóng mai, cùng tượng vàng chói sáng. Bao lơn quanh bọc, hoa cỏ
đầy thềm. Trước có cửa chính, dựng để treo chuông. Chày kình gõ đánh,
tiếng chuyển bay xa: thức kẻ mê, phá kẻ tục, khuyên kẻ thiện, răn kẻ ác.
Trước cửa một đường thẳng xuống sông. Hai bên có rãnh nước; trời mưa thì
nước chảy theo mà xuống. Kề sông có một đình nhỏ. Thường thường,
thuyền bè qua lại, dừng đó nghỉ ngơi. Hoặc Chiêm Thành, Chân Lạp sang
sứ, tới đó mà quỳ gối quy y. Hoặc nước lạ, đất xa về chầu, qua đó cũng cúi
mình rạp trán" (LX).
Thật vậy, chùa ở trên đường xung yếu bấy giờ. Từ nam tới, thuyền qua
sông Mã, sông Lèn, qua trước chùa Linh Xứng, đến sông Hội Thủy, sang
Tống Giang và ra cửa Thần Phù, để tới Thăng Long.
Lúc lạc thành, có lập hội. Các sư tụ tập rất đông.
Lý Thường Kiệt có người cháu gái họ (có lẽ con Lý Thường Hiến), tên là
Lý Thị Cậu, lấy Vãn Thị hiệu là Sùng Chân xử sĩ. Bà cũng quy Phật, hiệu là
Bà Di Diệu Tính. Bà sinh được ba trai. Người đầu theo đạo Nho, tên là Văn
Hai, tự là Bành Tổ. Hai con sau theo đạo Phật: là sư Viên Giác hiệu Pháp Trí,
và sư Minh Ngộ hiệu Pháp Tư. Hai người này xuất gia đời Thần Vũ (1069-
1072), phụng chiếu được xóa tính danh, không biên vào công điển. Bấy giờ
hai người đã tới làm nhà ở núi này mà ở. Hai người lại làm chùa riêng ở
phía đông núi, đặt tên là chùa Thánh Ăn (LX).
Công xây dựng bốn năm mới thành. Lý Thường Kiệt gọi sư Hải Chiếu
mà bảo: "Hưng công đã lâu, nay chùa đã xong. Nếu không khắc bia chép lại sự tích
333