Page 317 - Lý Thường Kiệt
P. 317

LÝ THƯỜNG KIỆT


         Đắp tượng, vẽ đồ. Chùa bắt đầu làm năm Kỷ Mão (1099), đến năm sau Canh
         Thìn (1100) thì xong.
             Chùa ngoảnh mặt về hướng nam. Đất là huyện c ổ  Chiến. Sau chùa có
         núi Tường Phượng. Gần mé sau, có núi Bạch Long. Trước chùa có sông chảy
         ngang;  phía  tả chảy về  phương đông, tới xứ Phân  Dịch;  phía  hữu chảy về
         núi Nghiêu Nhạc. Trước cửa có giếng đá, trông ra có hai tảng đá nhọn đứng.
         Bên cạnh có cầu" (BA)'^.
             Trên đây là theo văn bia mà tả. Ngày nay con sông lại chảy quanh sau
         chùa; có lẽ bị chữa vì địa lý. Phía đông, sông chia ra hai nhánh, một nhánh
         xuống qua làng Bố Vệ, cạnh đền vua Lê rồi ra sông Mã, một nhánh chảy về
         phía nam, hợp với Hoàng Giang. Phía tây, sông bị lấp tại làng Phủ Lý. Sông
         ấy là sông Bồn. Theo sách Thanh Hóa kỷ thắng chép lại, thì khi xưa, sông ấy
         thông với Lễ Khê chảy từ Lương Giang ra. Tục truyền rằng có một bà thái
         hậu đời Trần,  thấy nước Lễ Khê  ngọt, cho rằng đất ở đó có thể phát vua,
         bèn lấp sông ấy.
             Tuy rằng bia Báo Ân mất niên hiệu, nhưng theo năm làm chùa xong là

         năm 1100, và theo câu nói Lý Thường Kiệt coi quận trong 19 năm nay, thì ta
         thấy rằng bài bia làm năm Hội Phong thứ 9, Canh Thìn 1100. Vậy bia này là
         bia bằng chữ Hán xưa nhất còn thấy ở nước ta.
             Mà chùa cũng rất đáng chú ý, vì trong chùa còn những tượng rất xưa.
         Như trên đã nói, hạ đường chỉ là một nhà tranh, nhưng thượng đường lợp
         ngói. Trong có một pho tượng đất cao gần 2 m, xưa thếp vàng, nay lớp vàng
         đã phai hết, chỉ còn lớp sơn đen, nhưng trông rất đẹp. Pho tượng lại ngồi trên
         tòa sen. Tòa sen đặt trên lưng một con vật bằng đá, điêu khắc rất tinh xảo.
         Con vật ấy,  đầu hình đầu lợn, có nanh, mắt hung dữ;  chân có vuốt nhọn,
         đuôi to có hình lông xoắn ốc. Cả pho tượng và con thú ấy đặt trên một bệ đá,
         có lẽ mặt trước có điêu khắc, nhưng nay đã bị người ta xây một bệ khác che
         khuất, ở  hai góc, còn lòi ra một phần, và ở góc ấy có hình aguda, tức là vị thần,
         thân người đầu chim, có cánh, chân có vuốt, tai đeo khuyên, ngực đeo chuỗi
         hạt, lấy đầu và hai cánh đỡ mặt trên bệ. Kiểu điêu khắc ấy y như kiểu nay còn
         thấy ở cổ vật Chàm, mà ta cũng thấy ở một vài chùa ta. Chắc rằng đó là do


                                          328
   312   313   314   315   316   317   318   319   320   321   322