Page 315 - Lý Thường Kiệt
P. 315
LÝ THƯỜNG KIỆT
ra. Vả làng Phủ Lý có tên nôm là làng Kỹ. Chắc đó là tên giáp Bối Lý cũ. Bên
cạnh phía tây làng Phủ Lý, ta lại thấy có hai làng liền nhau, tên là Viên Quang
và Hồ Đàm. Ta cũng có thể đoán đó là do làng Viên Đàm cũ mà phân tách ra.
Xem vậy, ta có thể nhận dấu hai giáp Bối Lý và Viên Đàm. Nhung đầm A Lôi
thì không thấy nữa. Ruộng vùng ấy là ruộng sâu. Có lẽ đó là đầm cũ.
Năm Đinh Mão 1087, su Đạo Dung được vua Nhân Tông triệu tới kinh,
lập đạo tràng trong cung (HN).
Năm Nhâm Dần 1122, sư trở về thăm quê cũ. "Nhân vật tuy đổi, non
nước như xưa. Chùa đã đổ nát, nền móng vẫn còn". Sư liền sai thợ chữa lại.
Tô tượng Phật ngồi trên đá Bàn Đà. Đào hồ. Giữa hồ, xây bệ; đặt tượng Phật
trên. Chùa cao, cửa rộng, mái ngói. Mé tả có lầu chuông, mé hữu dựng bia
đá ghi công. Xung quanh đều xây tường. Vườn trồng hoa cỏ (HN).
Chữa xong chùa, sư đặt tiệc mừng; lập đàn cầu tự cho vua, và cầu phúc
cho quần chúng. Sư mời người làm bài ký, khắc vào bia. Chính là bia dựng
năm 1124 mà nay hãy còn. Nhưng tên tác giả thì mờ hẳn không đọc được
nữa. Có lẽ cũng là vị Hải Chiếu đại sư, làm bia Linh Xứng dựng năm 1126 và
bia Sùng Nghiêm Diên Thánh dựng năm 1118.
Sau đó, sư ở lại chùa cho đến lúc mất. TUTA chép rằng: "Rồi sư trở về
nhà, dựng chùa để ở đến lúc già. Sư mất ngày mồng 5 tháng 2 năm Giáp
Ngọ 1174, đời Thiên Cảm Chí Báu". Chép như vậy chắc lầm, vì rằng năm
1076, sư đã ra Thăng Long. Nếu sống đến năm 1174, thì sư phải ít nhất cũng
một trăm hai mươi tuổi. Sau khi sư mất, học trò là sư Tăng Đạo Lâm làm lễ
hỏa táng và xây tháp ở núi Càn Ni (TUTA).
Ngày nay, làng Phủ Lý không có núi. Núi Càn Ni, chép ở bia, có lẽ chỉ
là mô đất cao hơn cánh đồng xung quanh.
Chùa này hoàn toàn mới. Các vật trong chùa đều mới, trừ quả chuông
đúc đời Gia Long. Trong vườn không thấy có tháp cổ. Còn có hồ. Nhưng
trong chùa và ngoài chùa không thấy vật cổ nữa. Nếu bới đất tìm, trong nền
hay dưới hồ, may chỉ còn thấy cái bia xưa, dựng đời Hậu Đường ghi công
đức Lê Lương.
326