Page 311 - Lý Thường Kiệt
P. 311
LÝ THƯỜNG KIỆT
Văn bia kể sự tích chùa khá kỹ. v ề thiền sư Đạo Dung, sự tích chép ở
bia khá phù hợp với sách TUTA, và bổ túc cho sách ấy. Đó là một chứng rất
quý cho sự cổ truyền và xác thực của cuốn sách TUTA.
Bia lại còn nói đến một vị thái phó họ Lưu, tùng huynh sư Đạo Dung,
và sống đồng thời với Lý Thường Kiệt. Xét rõ, thấy đó là Lưu Khánh Đàm,
mà ta thấy tên chép ở sử^^* và ở mộ chí dựng đời Lý, nay vẫn còn ở làng Lưu
Xá, huyện Hưng Nhân, tỉnh Thái Bình. Như thế thì, vì một sự ngẫu nhiên
đặc biệt, ta còn có hai bia đời Lý, một sách đời Trần, chép những chuyện về
đời Trung cổ ở nước ta, có liên quan với nhau. Sự ấy thật là quý. Nhất là, sự
các sử liệu ấy không trái với các sách Việt sử lược và Đại Việt sử ký toàn thư,
nó làm tăng giá trị hai cuốn sử này.
Sau đây, tôi theo bia HN, các sách TUTA, TT và VSL, sẽ kể lai lịch chùa
Hương Nghiêm, thân thế sư Đạo Dung và sự liên quan giữa Lý Thường Kiệt
và Lưu Khánh Đàm.
Chùa Hương Nghiêm ở núi Càn Ni. Đó là theo bia HN; còn sách TUTA
chép núi Ma Ni, vì chữ Càn húy đời Trần*’'. Chùa ở giáp Bối Lý, bây giờ là
làng Phủ Lý, phủ Đông Sơn, tinh Thanh Hóa. Đời Hậu Đường (923-937), Lê
Lương dựng chùa ấy (HN). Lê Lương thuộc một cự tộc ở quận Cửu Chân,
châu Ái. Ông làm đến chức Trấn quốc bộc xạ. Nhà ông giàu, rất có thế lực
trong xứ. Thóc ông trữ đến 110 lẫm. Trong nhà ông nuôi 3.000 người khách.
Ông dốc một lòng thiện, rất sùng đạo Phật, ông là người trước nhất dựng
chùa ở giáp Bối Lý. Các bia chùa Hương Nghiêm, Trinh Nghiêm, Minh Nghiêm
đều có khắc chép công ông (HN).
Bấy giờ, dân ở châu quận này bị mất mùa, đói khó. ông đem thóc nhà
phát chẩn để cứu dân.
Đến sau lúc vua Đinh Tiên Hoàng lên ngôi (968-979), nghe tiếng ông có
đạo đức, vua phong cho ông chức Ái Châu Cửu Chân đô quốc dịch sứ, tức
là chức quan đứng đầu giúp nước ở Ái Châu, quận Cửu Chân. Vua lại ban
cho ông hàm Kim tử quang lộc đại phu, và phong ấp ở trong giới hạn sau
này: đông đến Phân Dịch, nam đến Vũ Long, tây đến đỉnh núi Ma La, bắc
đến Kim Cốc*^', và cho đời đời con cháu làm quan coi đất ấy (HN). Sách
322