Page 313 - Lý Thường Kiệt
P. 313
LỸ THƯỜNG KIỆT
cung dịch sứ, đại tướng quân, kim tử quang lộc đại phu, thực ấp 6.700 hộ, thật
phong 3.000 hộ (HN).
"Thiền sư Đạo Dung có hình thần lạ đẹp, tư khí thanh cao. Kinh kệ thì
không gì không đọc tới (TUTA). Năm Bính Thìn 1076, sư bỏ gia hương đi
tìm bạn. Cưỡi thuyền ra bể, rồi tới Thăng Long, ở đó, thiền sư gặp một vị
tăng, hiệu là Cao Tăng. Sư cảm phục, bèn theo học" (HN). VỊ Cao Tăng ấy là
ai? Sách TUTA có nói: Lúc nhỏ, sư theo tăng thống Nguyễn Khánh Hỷ để
xuất gia. Tăng thống người c ổ Giao, quận Long Biên (thuộc Bắc Ninh bây
giờ), trụ trì ở Từ Liêm, gần phía tây thành Thăng Long. Có lẽ Cao Tăng kia
chính là hiệu của tăng thống Khánh Hỷ trước năm 1133, khi chưa được triệu
vào kinh và chưa được ban chức tăng thống^''*.
"Cao Tăng Khánh Hỷ để ý đến Đạo Dung, cho là một kỳ nhân và dạy
cho Phật pháp (TUTA). Đạo Dung hỏi: "Điều gì cốt yếu trong Pháp?" Cao
Tăng trả lời: "Pháp vốn không phép, ta lấy gì mà bảo ngươi". Bỗng nghe, sư
thấy lòng nở nang, bèn giác ngộ" (HN).
Một hôm, sư Đạo Dung hỏi Cao Tăng: "Tôi đã hiểu rõ nghĩa chữ không
và chữ sắc. Sắc là bởi kẻ phàm thấy, không là bởi kẻ Thánh thấy. Có phải thế
không?" Cao Tăng trả lời bằng một bài kệ phỏng dịch như sau:
ở đời chớ hỏi sắc và không,
Học đạo chẳng qua tìm Tổ Tông.
Trồng quế trên trần sao được rậm,
Tìm Tâm ngoài Phật khó lòng mong.
Bao hàm nhật nguyệt trong hạt cải,
Thu hết càn khôn đầu mũi lông.
Đại dụng rõ ràng tay nắm chặt,
Ai hay phàm, thánh, biết đâu cùng.
"Từ đó, sư thích dạo núi sông, không đâu ngại đến" (TUTA).
"Sư bèn ngược sông Lô (Nhị Hà), trèo núi Thứu Đài. Ngắm xem cảnh đẹp
ấy, sư dừng chân lại, cho là rất vừa ý. Sư sai thợ chọn hướng, ghép đá làm
nền, mà dựng nên chùa. Đặt tên là chùa Khai Giác". Trên đây là theo bia HN,
324