Page 312 - Lý Thường Kiệt
P. 312

VÌDÂN-VÌOẠO


     TUTA cũng có  chép  rằng ông làm  châu  mục Ái  Châu  đời Đường và  suốt
     mười lăm đời, họ ông nổi tiếng ở đó.
         Đến khi vua Lê Đại Hành tuần du ở Ngũ Huyện Giang, tức là triền sông
     Lương, sông Mã ở Thanh Hóa. Vua thấy chùa đổ nát, bèn chữa lại (HN). VSL
     có chép vua đi chơi Hoan Châu năm 1003. Có lẽ vua qua Thanh năm ấy.
         Đến đời Lý, vua Thái Tông đi chơi về phương nam; tới Ái Châu, có qua
     chùa ấy. TT và VSL chép rằng năm 1031 Lý Thái Tông đi đánh Hoan Châu về,
     phát tiền thuê thợ chữa nhiều chùa quán ở các hương ấp (Xiv/cth 5).  Chắc
     rằng vua tới thăm chùa năm ấy. "Trải mấy đời thờ cúng, rường cột đã đổ nát.
     Vua bèn sai chữa lại. Vua lại ban cho cháu ông bộc xạ, là Đạo Quang trưởng

     lão làm thiền chủ, cấp cho năm tên giúp việc và sai trụ tiì ở đó" (HN).
         Hai tiếng trưởng lão là một mỹ hiệu tặng những tăng hay tăng quan được
     vua kính trọng. Tuy tăng quan ấy coi chùa, nhưng vẫn có gia đình con cái.
         Theo  TUTA  thì  trưởng lão  này  hiệu  là  Tăng Phán,  tên  là  Huyền  Nghi.
     Trưởng lão là thân phụ thiền sư Đạo Dung (HN).
         Thiền sư Đạo Dung tên gì? TUTA không chép. Nguyên bia HN có ghi,
     nhưng nay mòn không thấy dấu chữ nữa.

         Thiền sư có một tùng huynh, là Lưu Khánh Đàm, cũng là người Ngũ
     Huyện Giang, ở Cửu Chân, thôn Yên Lãng (Mộ Chí). Nay ở phủ Thọ Xuân
     và phủ Thiệu Hóa có hai làng Yên Lãng gần nhau ở hai bờ sông Lương. Có
     lẽ quê ông là vùng ấy. ông nội Lưu Khánh Đàm có năm con trai. Trong đó
     có  Huy  Triết,  dời  nhà  tới  ngụ  cư  ở khách  quán,  có  lẽ  tới  ở làng  Lưu  Xá
     huyện Hưng Nhân, tỉnh Thái Bình bây giờ (bia HN và Mộ Chí Lưu Xá).
         "Bấy giờ, vua Lý Thái Tông chọn dân ở quận để cho vào hầu vua. Lưu
     Khánh Đàm "phi thường khác chúng" nên được chọn vào chầu ở nội đình".
     Kịp đến khi Lý Thánh Tông lên ngôi, ông chầu bên cạnh, rất được vua yêu.
     Sau  khi Nhân Tông lên  ngôi,  vua nghĩ đến  công ông giúp  rập ba  đời, có

     nhiều công. Vậy phong cho ông chức thái phó, kiêm chức nội dịch trưởng
     quan, coi hết các việc quân và việc thường trong cung dịch. Vua lại ban cho
     ông chức tước sau này: Nhập nội nội thị tỉnh đô đô tri, kiểm hiệu thái phó, kiêm


                                       323
   307   308   309   310   311   312   313   314   315   316   317