Page 314 - Lý Thường Kiệt
P. 314

vì DÂN - VÌ ĐẠO


     còn TUTA chép: "Sư đi đạo hóa, dừng chân ở núi Thứu Phong, tại chùa Khai
     Giác và dạy học ữò". Sư được công chúa Thụy Thành, có lẽ là con vua Thái
     Tông, và thái phó Lưu Khánh Đàm cấp cho khí dụng để làm chùa (HN).
         Sư dạy học trò. Người tới học đầy nhà (TUTA).

         "Năm sau, Đinh Tỵ 1077 (bia HN, khi khắc lại, lầm ra Đinh Mão), sư trở
     về ấp cũ, thấy chùa Hương Nghiêm đã đồi hoại. Sư bèn nói với Lưu Khánh
     Đàm  rằng:  "Kẻ  nhân  hiền  không quên  dấu  tích  tiên  tổ.  Xin  anh  chữa  lại
     cho". Lưu công nghe nói, vui lòng mà thuận" (HN).
         Bấy giờ, quân ta vừa đánh lui quân Tống.  Lý Thường Kiệt vừa lập đại
     công.  Lưu công, và em là Lưu Ba, cũng vừa được chia phần vinh dự. Lưu
     công thấy chùa chiền bị chiến  tranh làm  hư đổ, đang lo sửa sang tự tháp
      (Mộ chí Lưu xá).
         "Lưu công bèn nói với quốc tướng thái úy Lý Thường Kiệt rằng: "Chùa

     Hương Nghiêm  là  do  tổ  tiên  tôi  sửa  chữa.  Nay đã  đổ  nát.  ông cùng tôi,
     chúng ta hãy chữa lại" (HN).
         Theo chương trên, ta biết rằng bấy giờ Thường Kiệt còn ở Thăng Long.
     Có lẽ Thanh Hóa là thực ấp của ông từ trước, cho nên Khánh Đàm mới bàn
      cùng ông chữa chùa Hương Nghiêm ở đó. Thường Kiệt bèn tìm gỗ, sai thợ
      tới sửa chùa.
         Năm Tân Dậu 1081, hai phò ký lang, họ Thiều và họ Tô*®’, tâu vua xin
      ruộng đất của bộc xạ Lê Lương. Vua xét lời tâu, bèn định trả giáp Bối Lý cho
      họ hàng Lê công.

         Mùa thu năm ấy, Lý Thường Kiệt đi Thanh Hóa trả ruộng, ông lập bia
      đá chia ruộng cho hai giáp. Từ nửa đầm A Lôi trở lên, cho giáp Bối Lý;  từ
      nửa  đầm  trở xuống,  cho giáp  Viên  Đàm.  ông lại  dặn  đi, dặn  lại  hai giáp
      không được hái một lá lau lách ở hai bên bờ đầm, vì đó là giới hạn (HN).
          Hai tên giáp ấy nay đã thay đổi, nhưng đất còn có thể tìm được. Chùa
      Hương Nghiêm nay ở làng Phủ Lý. Nếu ta xét bản đồ Thanh Hóa ngày nay,
      ta thấy rằng bên cạnh làng Phủ Lý có những làng Nhân Lý, Mỹ Lý. Theo tục
      đổi tên ở xứ ta*®’, ta có thể chắc rằng ba làng ấy khi xưa là một và sau mới chia


                                        325
   309   310   311   312   313   314   315   316   317   318   319