Page 319 - Lý Thường Kiệt
P. 319

LÝ THƯỜNG KIỆT


            Đối với trấn lỵ Thanh Hóa đời Lý, Ngưỡng Sơn khá gần, "chỉ cách năm
        dặm, phảng phất như ở trong thành quận" (LX). Tên làng sở tại, đời Lý, là
        làng Đại Lý. Tên Đại Lý bây giờ còn, ấy là làng ở phía nam sông Lèn, đối
        ngạn với làng Ngọ Xá. Đời Lý, làng ấy rất to (LX), chắc nó gồm cả vùng bắc
        và nam sông. Đến đời Trần, phần bắc đã đổi tên là Đại Lại^^T
            Chùa  Linh Xứng nay không còn  nữa.  Nhưng bia  chùa,  dựng  đời  Lý,
        vẫn  còn.  Dân  xã  đã  đem  để  trên  thềm  đền  Lý Thường Kiệt.  Bia  ấy  dựng
        năm Thiên Phù Duệ Vũ thứ 7, năm Bính Ngọ (1126), nghĩa là 21  năm sau

        khi Thường Kiệt mất. Tác giả bài văn bia là đại sư Hải Chiếu, tên Pháp Bảo,
        trụ trì chùa Phúc Diên Tư Thánh, kiêm coi công sự ở Thanh Hóa. Đại sư là
        một thuộc hạ ông.  Bia chép khá rõ sự nghiệp ông, và kể rất tường tận sự
        ông xây dựng lên chùa Linh Xứng. Văn bia lại rất dài, bia khắc hai mặt, chữ
        chân phương rất tốt, nét rất rõ (xem ảnh Illa và Illb). Tuy bia không có chạm
        trổ trang sức như các bia khác đồng thời, nhưng hàng chữ triện đề trán bia
        khá đẹp, và con rùa đội bia rất đơn giản nhưng mỹ thuật.
            Nay theo lời bia, ta biết gốc tích chùa Linh Xứng và lòng sùng Phật của
        Lý Thường Kiệt khi ở Thanh Hóa thế nào.

            "Ban đầu  đời Anh  Vũ  Chiêu Thắng, vua  Lý Nhân Tông ban cho ông
        hiệu Thiên tử nghĩa đệ. ông ra coi các việc quân, dân ở Ái Châu, quận Cửu
        Chân, trấn Thanh Hóa (theo bia BA thì năm 1082, Anh Vũ Chiêu Thắng thứ
        7, ông ra Thanh Hóa). Tuy thân vướng tục, nhưng lòng đã quy y. Ầy vì vua
        và mẫu hậu (thái hậu) tôn sùng đạo Phù đồ: ông vâng ý hai thánh giúp đỡ
        đạo trời rất nhiều" (LX).
            Bấy giờ có vị sư hầu thái hậu, là Sùng Tín trưởng lão, từ kinh tới thăm
        quận.
            Vì trưởng lão ấy là ai? Xét sách TUTA, thì có lẽ  trưởng lão là Mãn Giác
        đại si/^*.

            Đại sư sinh năm  1052, là con viên ngoại lang Lý Hoài Tố, người đi sứ
        Tống năm  1073,  (TUTA chép họ Nguyễn, vì kiêng húy đời Trần;  đây  theo
        TB). Lúc nhỏ, học Nho và Thích đều giỏi. Vào khoảng năm 1071, được chọn


                                          330
   314   315   316   317   318   319   320   321   322   323   324