Page 326 - Lý Thường Kiệt
P. 326

vì DÂN-vìĐẠO


       ^ Các tên đất này, nay không còn.  Nhưng ta cũng biết được một vài điều.  P hân   D ịch
    có lẽ là phần đất huyện Quảng Xương, ở bờ nam sông Mã. Bia Báo ân cũng có nói tới đất
    ấy (XV/1). Tên núi M a   La, về cuối đời Trần vẫn còn. Sách L am   sơ n   th ự c  lụ c chép rằng Lê
    Lợi trốn quân Minh ở đó, gặp xác một người đàn bà mặc áo trắng. 1.
       * TUTA chép rằng Khánh Hỷ mất ngày 2 7 tháng Giêng, năm Đại Định thứ 3, Nhâm
    Tuất 1142, thọ 76 tuổi. Theo đó mà tính, thì ông sinh năm 1067, và ông mới có 10 tuổi, lúc
    Đạo Dung tới Thăng Long.  Làm sao ông làm thầy cho Đạo Dung được?  Sách TT lại có
    chép, vào năm 1135, việc hầu  K hánh  H ỷ   m ấ t. Chắc rằng nguyên là chữ tă n g , mà TT chép
    lầm ra chữ h ầu . Người chú thích sách TUTA, in đời Vĩnh Thịnh, cũng nói rằng:  theo Sử
    ký thì tă n g  K h án h   H ỷ   m ấ t  n ăm   1 1 3 5 . Nếu theo thoại sau thì lúc bấy giờ Khánh Hy cũng chi
    mới 17 tuổi mà thôi. Tôi nghĩ rằng TUTA chép lầm năm mất và tuổi thọ. Có lẽ thọ 96 tuổi,
    vì chữ C ử u và  T h ất rất dễ lẫn. Với chữ C ứ u , thì lúc sư Đạo Dung ra học với Khánh Hy, vị
    này đã 37 tuổi. Như thế mới hợp lý. 1.
       ^ Phò ký lang là một chức quan có lẽ gần như phò mã. ở  Thanh Hóa có họ Thiều lớn
    ở làng Doãn Xá,  thuộc phủ  Đông Sơn. Đời Trần, họ  này có  T hiều  T hốn  làm quan  Lạng
    Giang phòng ngữ sứ. Đời Lê có  T hiều   Q u ỵ   L inh đậu hoàng giáp khoa  1505. Trong vùng
    này, còn có vài làng tên Thiều Xá, nghĩa là làng họ Thiều. 1.
       ‘ ở  nước ta, lúc đổi tên một xứ nào, thường vẫn giữ lấy một phần tên cũ, để dễ nhớ
    và dễ nhận trong giao thời. Tên đất thường gồm hai tiếng; lúc đổi thì hoặc giữ tiếng trên,
    hoặc giữ tiếng dưới.  Cho đến chữ bị đổi, trong tên mới, cũng thường được giữ lấy hoặc
    hình dáng, hoặc nghĩa, mà nhiều khi được giữ cả hình, cả nghĩa. Ví dụ chữ M in h đổi ra
    chữ LẢNG. Hai chữ đều nghĩa là sáng và tự dạng hơi giống nhau.
       Sự đổi tên có nhiều cớ. Cớ thường là vì kiêng chữ húy của các đời vua; ví dụ đời Lê,
    đổi An  B a n g ra An  Quảng,  Thanh  Đ à m   ra Thanh  Trì;  đời  Nguyễn  đổi Kim  H oa  ra  Kim
    Anh, Nam C h ân ra Nam Trực. Một cớ rất thường là để trừng phạt hay khen thưởng đất
    ấy. Ví dụ làng Trung Lễ ở Hà Tĩnh đã bị đổi ra Quy Nhân. Có lúc vì dân làng tự cho tên
    làng mình không hay, cho nên dân tự xin đổi. Như làng Bần Điền ở Nghệ An đã đổi ra
    Phú Điền. Một cớ rất thường là vì phân tách một đơn vị to ra nhiều mảnh, rồi thay tên cũ
    bằng nhiều tên mới. Trong trường hợp chia đôi đất, người ta thường lấy chữ đầu nguyên
    danh làm chữ đầu cho một tên mới, và chữ cuối nguyên danh làm chữ cuối cho tên mới
    thứ hai. Lúc họp hai đơn vị thì lấy chữ đầu của một tên và chữ cuối của tên kia mà chắp
    lại,  ví  dụ  tổng đốc  H à  N in h  là  tổng  đốc  Hà  Nội,  Bắc  Ninh.  Trong  trường  hợp  chia  ra
    nhiều mảnh, thì người ta lấy một chữ làm gốc (ví dụ tên tục) có sẵn trong nguyên danh,
    rồi  thêm một chữ mới lên trên hay xuống dưới để làm chỉ định tự, để mà phân biệt. Ví
    dụ làng Sét thành Thịnh Liệt, Thanh Liệt, Tử Liệt; làng Mơ thành Bạch Mai, Hoàng Mai,
    Tương Mai, Mai Động. 1.
       ^ Sách ANCL có chép rằng phủ Thanh Hóa có giáp cổ Chiến. Theo bia BA, thì giáp ấy
    là đất Đông Sơn. 2.
       ® Cuối đời Trần, sử chép tên sông Lèn là Đai Lai, làng ở phía bắc sông là làng Đại Lại,
    núi ở phía bắc Ngưỡng Sơn là núi Đại Lại. Chắc đó là biến danh của Đại Lý. Làng Đại Lại


                                       337
   321   322   323   324   325   326   327   328   329   330   331