Page 325 - Lý Thường Kiệt
P. 325

LÝ THƯỜNG KIỆT


             Ông giúp Phật giáo, chẳng qua là theo phong trào đương thời mà thôi.
         Lại  thêm  thái  hậu  và  vua  mộ  Phật,  ông  dựng  chùa  chỉ  vì  "vâng  ý  hai
         Thánh" mà thôi chăng?
             Hoặc giả, công đức với Phật của ông, lúc về già, mới có. Nếu thật như
         vậy, thì biết đâu đó chẳng là vì lòng sám hối tội hiếu sát của ông đương lúc
         tráng thời hay sao?




         Chú thích:

            ' H ú y  đờ i  T rần . Đời Trần, không những tên các vua, và cha mẹ vua đều phải kiêng mà
         thôi. Sau khi cướp ngôi Lý, Trần ban miếu húy. Vì "Nguyên tổ tên Lý, cho nên đổi họ Lý
         ra  họ Nguyễn, để cho tuyệt lòng mong nhà  Lý của  dân"  (TT 1232).  Ta thấy  rằng trong
         sách, sử viết đời nhà Trần, như VSL, và TUTA, họ Lý đều bị đổi ra họ Nguyễn. Vả trong
         bia BA, chữ Lý cũng bị đời Trần đục xóa đi.
            Ngô Sĩ Liên còn cho ta biết rằng: "Vua Trần Minh Tông đối với họ hàng rất hậu, mà
         đối với người họ thuộc bậc tôn quý, thì lại càng tôn kính.  Phàm bầy tôi có ai trùng tên,
         thì bắt đổi  đi. Ví như tên  Độ thì đổi  ra  S ư   M ạ n h , (chắc là  Phạm  Sư Mạnh), vì  kiêng tên
         Trần  Thủ  Độ;  T u n g thì  đổi  ra  T húc  Cao  vì  kiêng  tên  hầu  Hưng  Ninh.  Vả  mỗi  khi  nói
         chuyện, để  tránh nói  đến  tên  các bực chú, bác, cô,  cậu,  vua  lại soạn  tấm  thiếp  nhỏ kê
         những tiếng kiêng nói, để trao cho các con cái và cung nhân" (TT 1315).
            Vì lẽ ấy, cho nên chữ C àn phải kiêng. Sách TT (1312 đời Trần Anh Tông) có chú thích
         rằng:  "Cửa  c ầ n   ở  huyện  Quỳnh  Lưu,  thuộc  Nghệ An, vốn  tên  là cửa  C à n ,  vì  húy nên
         đổi". Cùng vì lẽ ấy, mà điện C àn   N g u y ê n , đời Trần đổi ra điện Triều Nguyên; núi  C àn   N i
         đổi ra núi Ma Ni. Mà chính âm của chữ ấy là K iền , nay ta thường đọc Càn có lẽ cũng là vì
         tỵ húy từ đời Trần.
            Chữ Đ ạo chắc cũng vì tên của Trần Hưng Đạo mà đổi. Không những Đ ạ o   D u n g thành
         Pháp Dung, mà tên L ý   Đ ạo  T hành trong VSL (1073), đã đổi ra Nguyễn Nhật Thành. Có lẽ
         cũng vì kiêng húy, mà trong tên Tô Hiến Thành, VSL (1139) đã đổi chữ H iến ra chữ Linh,
         và hiệu S ù n g  T ín của đại sư Mãn Giác đã bị TUTA (21b) đổi ra Hoài Tín. 1.
            ^ Tên  Đ à m  mỗi nơi chép một khác. Mộ chí và TT 1161  đều chép với chữ Đàm là  nói
         ch u yện ;  nhưng vào năm  1127,1129,  1136, sách TT lại chép với chữ  Đ à m   là sâu   d à i, tức là
         nừa bên phải chữ Đàm kia.
            Sách TT có chép những chuyện sau này về Khánh Đàm:
            Năm 1127, vua Nhân Tông triệu thái úy Lưu Khánh Đàm để trao di chiếu. Năm 1129,
         Thần Tông sai thái úy Lưu Khánh Đàm đi bắt hươu  trắng ở rừng Giang Để.  Năm  1135
         ông chết. Nhưng đến năm  1161, TT lại chép thái úy Lưu Khánh Đàm chết một lần nữa.
         Có lẽ đó là em Lưu Khánh Đàm, tức là thái úy L ưu  Ba. 1.

                                           336
   320   321   322   323   324   325   326   327   328   329   330