Page 327 - Lý Thường Kiệt
P. 327

LÝ THƯỜNG KIỆT


       là quê của Hồ Quý Ly. Năm 1398, Quý Ly dựng cung Bảo Thanh ở dưới chân núi Đại
       Lại, để ép vua Trần Thuận Tông ở (TT). Sau khi Quý Ly lên ngôi,  thường hay về nghỉ
       mát ở đó. Dựng cung gọi là Ly Cung. Có bể tắm xây đá, có chạm trổ rất đẹp. Bể tắm, thì
       lấy nước suối cho vào. Nay vết tích bể tắm còn. Nếu bới đất tìm vùng này, ta sẽ biết rõ
       nhiều điều về đời Trần mạt. Cũng ở đó, có chùa Kim Âu, dựng đời Trần, nay còn bệ đá
       điêu khắc rất đẹp, và một pho tượng Phật cổ, có lẽ từ đời Trần. 3.
          ’ Mãn Giác là tên thụy, nghĩa là tên được vua ban cho, sau khi sư đã mất. Húy của sư
       là  T rư ờ n g. Lúc bé sư vào hầu Càn Đức. Thái hậu rất yêu.  Cho nên sau khi Càn Đức lên
       ngôi, thái hậu lại ban hiệu cho ông là H oài T ín . Sau khi sư đi tu nổi tiếng, thái hậu lại mời
       vào  ở  chùa  Giáo  Nguyên  trong  cung.  Thái  hậu  không gọi  sư bằng  tên,  mà  chỉ  gọi  là
       trư ở n g  lão. Theo những điều mà TUTA chép trên, thì đang lúc sinh thời, Mãn Giác mang
       hiệu H oài  T ín   trư ở n g   lão. Hiệu ấy so với hiệu Sùng Tín trưởng lão, chép trong bia LX, có
       khác chữ H oài. Nhưng hai hiệu nghĩa như nhau. Ta có thể đoán rằng, hai trưởng lão kia
       chi là một. Có lẽ, đời Trần có kiêng tiếng S ù n g (xem xv/cth 1) cho nên TUTA mới đổi ra
       H oài như thế.
          Xét tên, xét chức, xét địa vị của Sùng Tín trưởng lão và Hoài Tín trưởng lão, ta có thể
       tin rằng hai người là một. Vậy, vị sư tới thăm Lý Thường Kiệt, năm 1085, ờ  Thanh Hóa,
       chính là Mãn Giác đại sư. 3.
            Theo Lê Tắc là người Thanh Hóa đời Trần, viết trong ANCL, thì Thanh Hóa có lèn
       L on g Đ ạ i, mà cũng gọi là Bảo Đài. Cảnh lèn u uất, đẹp, có động thờ Phật, ngoài có lầu gác
       trên sườn núi. Trước mặt có sông, sau có lối đi và ngòi nước. Rừng thông vài dặm, núi đá
       vạn trùng. Xưa truyền rằng trong hang có thứ dơi lớn. Cho nên tên tục là núi H a n g  D ơi.
          Những sách, ANCL của Lê Tắc, ANCN của Cao Hùng Trưng, Việt kiệu thư, và Minh
       chí chắc đều chép theo một gốc mà ra, gốc ấy là Lê Tắc. Nhưng vì sao lầm, in lầm, cho
       nên có khác nhau ít nhiều. Ngày nay còn có động Bạch Ác ở làng Trị Nội, huyện Nga
       Sơn, cũng có tên tục Hang Dơi. Nhưng tôi tưởng tên ấy, các hang thường có. Theo trên,
       núi Long Tị không phải ở đó.
          Sách Minh chí cũng có chép núi Long Đại vào hàng danh sơn. Sách ĐNNTC XIV/31a
       nói rằng núi Long Đại là núi Hàm Rồng ngày nay, mà tên chữ là L o n g  H àm .
          Xét hai tên Phấn Đại, Long Tị, ta có thể ngờ rằng cửa bể ấy và núi ấy cũng chẳng xa
       núi Long Đại đời Trần. Tôi tưởng rằng núi Long Tị là núi Long Hàm (Hàm Rồng), và cửa
       bể  Phấn Đại là cửa sông Mã. Núi Long Hàm  hay Hàm  Rồng là  nhỏn  cuối của một dãy
       núi,  chạy dài  trên  hữu  ngạn  sông Mã  từ  làng Dương Xá đến  cầu  Hàm  Rồng,  dài  trên
       khoảng 5  km.  Núi  là  núi  đất lẫn  đá,  nhưng  nhỏn  Hàm  Rồng  thì  toàn  đá.  Trên  cao  có
       động,  tên  động là  L o n g   Q u a n g .  Động có  hai  cửa  hai  bên,  hình  như  hai  mắt  rồng,  mà
       thường gọi là Long nhãn. Núi sát bờ sông, trên bờ có mỏm đá dô ra như hình mũi rồng,
       cho nên gọi là L o n g   T ị. Gần mặt nước có hai lớp đá trồng nhau như hàm rồng, đó là L ong
       H àm .  Toàn hình,  trông từ phương bắc, giống như đầu rồng đương uống nước.  Bên  kia
       sông có nhón đá tròn, người ta gọi là núi H ỏa  C h âu . Cảnh chung gọi là L o n g  H í C hâu (rồng
       vờn hạt ngọc châu). Chắc rằng đời Lý, cửa sông Mã gần núi Long Tị hơn bây giờ. Vả bờ


                                         338
   322   323   324   325   326   327   328   329   330   331   332