Page 299 - Lý Thường Kiệt
P. 299
LỶ THƯỜNG KIỆT
theo bia STDL và sách TT. Tháng 9 năm Ất Dậu 1105, Lý Nhân Tông dựng
hai tháp mái bằng sứ trắng ở chùa Diên Hữu. Bấy giờ vua chữa lại chùa
(TT). "ở vườn Tây cấm, dựng chùa Diên Hữu. Theo dấu chế độ cũ, thêm
mưu mới của nhà vua. Tạc hồ Linh Chiểu. Trên hồ dựng lên một cột đá.
Trên cột đá nở một hoa sen nghìn cánh. Trên hoa lại gác một tòa điện.
Trong điện đặt tượng phật vàng. Xung quanh hồ có hành lang bao vây,
tường vẽ. Ngoài hành lang lại có hồ Khang Bích bọc bốn bề. Mỗi bề có cầu
thông ra ngoài sân. Trong sân, kề đầu cầu ở trước chùa, có dựng hai tháp
lợp ngói sứ" (bia STDL).
Tuy những cung điện, chùa miếu cũ nay không còn, nhưng ở một vài
nơi, còn có vài tòa tháp, hay một tấm bia, hay vài bệ đá, hay ít nhiều tảng đá
chạm cũ. Những di vật ấy cũng đủ tỏ cho ta thấy rằng nghề kiến trúc, cũng
như nghề điêu khắc đời Lý, rất tinh vi và hùng vĩ, các triều đại sau không
sánh kịp*®'.
Một ảnh hưởng bất ngờ của đạo Phật là: Nhờ các vua Lý muốn tổ chức
những hội long trọng, cho nên đã khuyến khích sáng chế ra nhiều máy tự
động. Sử và nhất là bia STDL còn tả rõ những máy đã được thực hiện ở
trong đời Nhân Tông.
Đây là máy kim ngao. Ngày trung thu và ngày tết, Nhân Tông ngự ở
điện Linh Quang trên bờ sông Lô. Dưới sông, hàng nghìn thuyền gióng
trống đua bơi. ở giữa sóng, một con rùa vàng nổi, lưng đội ba hòn núi. Rùa
lội rù rờ ữên mặt nước, lộ vân trên vỏ và rè bốn chân. Chuyển mắt nhìn lên
bờ, miệng thì phun nước lên bến. Quay đầu hướng tới ngai vua, mà cúi đầu
chào. (STDL).
Đây là máy đèn quay và người nộm đánh chuông. Ấy là lúc vua kén
hoàng hậu. Nhân Tông đặt hội đèn Quảng Chiếu. "Dựng đài Quảng Chiếu,
ngảnh ra cửa Đoan Môn. Giữa nêu một cột, ngoài đặt bảy từng. Rồng cuốn
mà đỡ tòa kim liên, rèm lồng mà che đèn sáng rực. Có máy giấu kín dưới
đất, làm đài quay như bánh xe. Lại có hai tòa hoa lâu. Treo quả chuông
đồng. Tạc chú tiểu mặc áo cà sa, vặn máy kín thì giơ dùi đánh. Nghe tiếng
310