Page 278 - Lý Thường Kiệt
P. 278
vì DÂN - VÌ ĐẠO
và VSL có chép tên Đỗ Thụy Châu, mà TT không chép, bắt buộc ta phải kết luận rằng ví
phỏng bài bia kia có kẻ bịa ra, thì ít ra cũng từ đời Trần. Nhưng cũng không có gì khiến
ta nghĩ rằng bài bia kia đã bị bày đặt, như các thần tích khác. Huống chi bia này là một
mộ chí, kể chuyện một người vừa mất, chứ không phải chuyện một vị thần. Vậy ta có thể
tin rằng mộ chí kia thật dựng lên đời Lý.
Mộ chí ấy là mộ chí Đỗ Anh Vũ, làm thái úy đời Lý Anh Tông, chứ không phải là mộ
chí Lý Thường Kiệt. Mặc dầu bia NBS và sách ĐNNTC nói Lý Thường Kiệt táng và có
đền ở làng Yên Lạc, mặc dầu các làng ở Kim Động và Đông An khai chuyện đức thánh
Lác y như chuyện Lý Thường Kiệt, mộ chí ở làng Yên Lạc buộc ta phải nhận rằng đức
thánh Lác là Đỗ Anh Vũ, đúng như tên khai bởi các làng thờ thần.
Thế thì tại sao lại có sự hồ đồ ấy? Có lẽ vì những cớ sau này. Nguyên là Đỗ Anh Vũ
cũng làm đến chức thái úy ở đời Lý như Lý Thường Kiệt. Mà theo mộ chí Anh Vũ lại
được vua ban họ Lý. Cho nên cũng gọi là Lý thái úy, y như Thường Kiệt, lại thêm, dòng
đầu ở mộ chí có đề " C ự V iệt quốc T hái ú y L ý cô n g thạch bi m in h tự", nghĩa là bài tựa của lời
khắc vào bia quan thái úy họ Lý người nước Cự Việt (tức là Đại Việt). Nếu kẻ đọc bia chữ
đã mờ mà không để V thì dễ nhầm ra V iệt quốc cô n g th ái ú y L ý cô n g nghĩa là Lý Thường
Kiệt. Chức tước của Đỗ Anh Vũ cũng dài và gần giống như chức tước Thường Kiệt. Chức
tước ấy như sau (những chữ giống chức tước Thường Kiệt sẽ viết xiên): S u y trung, H iệp
m ư u , Bảo tiết, T hủ ch ín h , Tá lý, D ự c đ á i cô n g thần; T hủ th ư ợ n g th ư lệnh, K h ai ph ủ n gh ị đ ồ n g
ta m ty ; N h ậ p n ộ i n ội th ị tin h đô đô tri, K iểm hiệu th ái ú y, K iêm n g ự s ử đ ại phu; D ao th ụ ch ư trấn
T iế t độ sứ , Đ ồ n g tr u n g th ư , minh chính bìn h ch ư ơ n g sự ; T h ư ơ n g trụ quốc, T hiên tử tứ tính.
Đặc tiến P h ụ qu ốc th ư ợ n g tư ớ n g qu ân . Nguyên soái đại đô thống.
Gặp thời loạn lạc, hoặc đời Lê, hoặc đời Nguyễn, thần tích làng Yên Lạc đã mất. Các
làng thờ đức thánh Lác không còn thần tích nữa. Tuy vậy, ai cũng còn biết tên thần là Đỗ
Anh Vũ. Đến khi phải khai sự tích thần mình, thì không mấy ai để ý đến mộ chí kia, hoặc
họ chi xem qua dòng đầu mà cho đó là một Lý Thường Kiệt, hoặc họ chi nhớ rằng thần
là Lý Thái úy làm quan đời Lý, có công dẹp giặc; rồi họ cho đó là Lý Thường Kiệt. Vì vậy,
tuy có mộ chí, tuy người làng biết thần là Đỗ Anh Vũ có tên trong quốc sử, nhưng họ lẫn
công lao với công lao của Lý Thường Kiệt. Còn người ngoài thì lầm tưởng mộ và đền là
của Lý Thường Kiệt.
Mộ chí này dài, có chép một ít tên đất, tên người và những sự tích rất có ích cho sự
kiểm soát sách TT và VSL. Tiếc vì nay chưa tiện bới đất tìm bia, cho nên ta chưa chắc
chắn tin vào văn sao được, và chưa có thể bàn một cách hoàn toàn chu đáo.
Nhưng mộ chí cũng cho ta biết một điều rất quan hệ có liên quan đến Lý Thường
Kiệt, mà ta phải lập tức nêu ra. Ây là vấn đề gốc tích ông. Trong chương đầu sách này, tôi
đã dựa theo bia NBS và sách VĐUL, và TT, mà viết rằng Thường Kiệt người phường Thái
Hòa, họ Lý; cha là An Ngữ, sung chức sung ban lang tướng và mất ở Thanh Hóa năm
1031, trong khi ông còn bé. Thế mà theo mộ chí này thì ta thấy rằng cha Thường Kiệt là
một quan thái úy đời Thái Tông, họ Quách, quán ở huyện Câu Lậu, thuộc Tế Giang (ở
đây có lẽ có chữ viết lầm, vì Tế Giang trỏ đất gồm huyện Văn Giang ở tả ngạn Nhị Hà,
289