Page 277 - Lý Thường Kiệt
P. 277

LÝ THƯỜNG KIỆT


             ’ Bia LX, dựng sau khi Lý Thường Kiệt mất, kể đủ các chức tước của ông như sau: S u y
          thành,  H iệp  m ư u ,  T hủ  chính,  T á lý,  D ự c đ ớ i cô n g  th ần ,  T hủ   th ư ợ n g  th ư  lệnh,  K h ai p h ủ   n g h ị đ ồ n g
          ta m   ty ,  N h ậ p   n ội  n ội  th ị  tin h  đô đồ  tri,  K iểm   hiệu  th ái  ú y ,  K iêm   n g ự  s ứ  đ ại p h u ,  D a o   th ụ   ch ư  trấn
          tiế t độ sứ ,  Đ ồ n g  tru n g  th ư  m ôn   hạ  bìn h  ch ư ơ n g sự ,  T h ư ợ n g  trụ   quốc,  T h iên   tứ  n gh ĩa  đệ,  P h ụ   quốc
          th ư ợ n g  tư ớ n g  qu ân ,  V iệt quốc côn g,  T hự c ấ p   n h ất  vạ n   hộ,  T hự c  th ậ t p h o n g  tứ  th iên   hộ. Nghĩa là:
          Kẻ bầy tôi có công, trung thành, bày mưu, cầm tiết, giữ chính, giúp việc, phò tá; coi việc
          ty thượng thư, được quyền mở phủ, ngang với  tam ty, được vào nội, coi  tất cả  các việc
          chầu trong cung, lĩnh chức thái úy đứng đầu các quân; kiêm chức ngự sử đại phu kiểm
          soát việc chính; ở Kinh coi việc quân tất cả các trấn, cùng coi việc bí thư, hằng ngày đến
          gần vua bàn việc; hàm thượng trụ quốc; đã có công bắt được tướng giặc; em nuôi vua;
          chức thượng tướng giúp nước; tước quốc công, hiệu Việt; được phong lộc hạng một vạn
          hộ; được thật phong lộc bốn nghìn hộ.
             Bia BA (dựng trước khi ông mất) kê có khác một vài chữ như sau: Chữ h iệp   ờ  bia BA
          viết khẩu và th ập,  ở  LX viết th ậ p và ba  ch ữ  lực; chữ n g h ị đ ồ n g thì BA viết kh âm   đ ồn g; chữ phụ
          quốc thì BA viết khai quốc.  7.
              về mộ Lý Thường Kiệt, bia Nhữ Bá Sĩ nói là ở làng Yên Lạc ở phủ Khoái Châu, tỉnh
          Hưng Yên.  Không biết rằng Bá  Sĩ chép sự ấy  theo ai,  nhưng có  lẽ  theo  sổ  các vị  thần
          được  ghi  vào  điển  bộ.  Chính  trong  sách  ĐNNTC,  soạn  đời  Tự  Đức,  cũng  chép  rằng
          huyện Kim Động có đền thờ Lý Thường Kiệt.
             Nhưng theo lời các làng thuộc tỉnh Hưng Yên khai các vị  thần thờ trong hạt, để  trả
          lời một cuộc điều tra của viện Bác cổ năm 1938, thì những làng Yên Lạc và lân cận (Cao
          Quán, Hoàng Vân Ngoại, Hoàng Vân Nội, Thổ Khối, Kim Tháp nay thuộc huyện Đông
          An (Phủ  Khoái Châu kiêm lý), và Đào Xá, Tượng Cước, Bình cầu, Vũ  Xá, Đề cầu, Lôi
          Cầu  thuộc  Kim  Động)  đều  khai  tên  thần  mình  là  đ ứ c  th án h   L ác  và  tên  là  Đ ỗ   A n h   V ũ.
          Nhưng  đến  khi  kể  thần  tích,  thì  phần  lớn  đều  kể  chuyện  của  Lý  Thường  Kiệt  đánh
          Chiêm Thành và đánh Tống.
             Đền chính là đền Yên Lạc, nay cũng thuộc về huyện Đông An; cho nên thường chỉ
          gọi thần là đức thánh Lác mà thôi, vì tên tục làng là Lác. Làng còn có đám đất chừng tám
          mẫu gọi là cấm địa, trong đó có mộ của thần.
             Vì sao có những sự mâu thuẫn như thế? Và đức thánh Lác đích là ai?
             Thuở xưa mộ  thần  có một bia lớn,  nhưng nay đã  "chìm"  mất.  Đó  là  theo lời  người
          làng Yên Lạc. Họ lại kể chuyện rằng vì trẻ chăn trâu thường đốt lửa cạnh bia, cho nên bia
          đã vỡ và lấp xuống đất mất.  Nhưng làng còn bản sao bia  ấy. Tuy kẻ chép lại có bỏ  sót
          hoặc viết sai một vài chữ, và tuy rằng bản sao không có niên hiệu và  tên người làm bài
          bia, nhưng tôi đã xét kỹ nội dung bài văn bia, thì thấy rằng bia ấy thật dựng từ đời Lý, và
          dựng vào năm 1158. Ngoài những chứng như cách dùng chữ hư tự N ã i,  Y ên , giống ở các
          bia đời Lý khác, ngoài những chuyện chép khá phù hợp với sách TT, còn có một chứng
          rất chắc chắn là sự sau này.  Bia có chép rằng Lý Anh Tông lấy con gái họ  Đ ỗ  tên  T h ụ y
          C h áu . Việc ấy trong TT không có. Nhưng trong VSL lại có (VSL  1175). Ta biết rằng sách
          VSL đã viết vào đời Trần, và bị mất ở xứ ta, có lẽ vào khoảng đời Minh Vĩnh Lạc. Sự bia


                                            288
   272   273   274   275   276   277   278   279   280   281   282