Page 268 - Lý Thường Kiệt
P. 268

vì DÂN - VÌ DẠO


          Đầu đời Lý Anh Tông, niên hiệu Thiệu Minh (1138), vua sai trấn quan
      lập đền ở núi Ngưỡng Sơn (Thanh Hóa),  tại nhà Thọ Đường (chắc là sinh
      từ), bên cạnh chùa Linh Xứng, mà ông đã từng dựng lên. Vua lại sai dân hai
      tổng (NBS chép tổng, nhưng chế độ tổng là đời sau mới đặt ra) Ngọ Xá và
      Hoàng Xá phụng sự. Mỗi năm có ban quốc tế (NBS). Đời Trần Nhân Tông,
      năm đầu niên hiệu Trùng Hưng (1285), vua ban sắc, phong ông tước Trung
      phụ công. Năm Trùng Hưng thứ 4 (1288), lại gia phong hai chữ Dũng vũ. Đời
      Trần Anh Tông, năm Hưng Long thứ 21 (1313), lại tấn phong làm Uy Thắng
      đại vương (đó là theo NBS, VĐUL chi nói gia phong hai mỹ tự Uy Thắng mà
      thôi), v ề đời sau, nhiều lần được phong thêm hai chữ mỹ tự. Cho đến đời
      Tự Đức thứ 29,1876, đã có 258 chữ. (NBS).
          Trong sổ  Bách  thần  lục đời Tự Đức,  Lý Thường Kiệt chỉ  được liệt vào

      trung đẳng, và thường có hiệu Quảng uy Lý tôn thần, hay Mục Uyên vũ dũng
      thần, hay Thái úy Việt quốc công tôn thần, hay nói tắt Lý thái úy tôn thần.
          Ngày nay, còn có một vài nơi có đền thờ Lý Thường Kiệt. Đền chính ở
      xã Ngọ Xá, phủ Hà Trung (Thanh Hóa). Theo bia NBS thì huyện Kim Động
      (Hưng Yên), và huyện Vĩnh Thuận (gần trường đua ngựa ở Hà Nội), cũng
      có  đền.  Trong  mục  lục  sách  VĐUL,  có  chép  đền  ông  ở  Gia  Lâm  hương.
      Nhưng nay không rõ ở đâu nữa.
          Đền mà NBS nói ở các làng thuộc Kim Động (nay, một số ăn về huyện

      Đông An), thì không phải thờ Lý Thường Kiệb"*. Đền Vĩnh Thuận, thì nay
      có lẽ là một ngôi đền nhỏ, lẫn vào những nhà dân làm nghề trồng rau ở
      làng Vĩnh Phúc, gần trường đua ngựa. Kẻ thủ từ, cho đến dân làng, cũng
      không biết đích xác thần là ai nữa. Mà xét ra, thì đền cũng không giữ được
      dấu vết gì xưa.
          Đền Ngọ Xá tuy cũng nhỏ, nhưng ở vào địa thế rất đẹp. Đền ở xa thành
      thị, nên còn giữ được tính cách một miếu thần. Theo bia NBS ở đền, thì đền
      này lập từ đời Lý Anh Tông (1138), nhưng sau bị đổ nát. Đến đời Lê Trung
      hưng, vua Lê tin rằng thần đã giúp mình đánh Mạc, nên sai dân xã Ngọ Xá
      trùng tu, và cấp cho 20 suất tảo lệ, và 18 suất lệ phu coi việc tế tự và giữ đền.



                                        279
   263   264   265   266   267   268   269   270   271   272   273