Page 262 - Lý Thường Kiệt
P. 262

vì DÂN - VÌ DẠO

         Những lúc khách kinh kỳ tới viếng, những lúc sứ Chiêm Thành, Chân
     Lạp qua chầu, ông đón tiếp ân cần. Đó cũng là những lúc đỡ tẻ trong đời
     êm lặng của tướng quân tại quận.

         Các  sử  không  chép  việc  ông ra  trị  Thanh  Hóa.  Vậy  ta  không biết  rõ
     chính tích của ông. Chỉ có bia chùa Hương Nghiêm còn ghi chuyện ông chia
     đất ở làng Bối Lý, và bia Linh Xứng chép chuyện ông, với một vị cao tăng
     tới thăm ông, cùng đi du lịch các sông núi, và chuyện ông dựng chùa Linh
     Xứng và nhà Thọ Đường mà thôi.
         về việc dựng chùa, sau này sẽ kể  (XV/3).  Sau  đây là chuyện chia  đất.
     Chùa Hương Nghiêm là một ngôi chùa cổ, lập ra từ đời Đường, ở giáp Bối
     Lý.  Người sáng lập là Lê Lương, một kẻ rất giàu có và nhiều  thế lực trong
     hạt. Gặp năm đói kém, ông lấy của nhà phát chẩn cho dân. Khi Đinh Tiên
     Hoàng lên ngôi, vua ban cho ông chức tước và thực ấp. Thực ấp ấy là đất
     xung quanh chùa, có lẽ rộng như một phủ, huyện. Đến đời Lý Nhân Tông,
     họ Lê có vị đại sư rất có tiếng là Đạo Dung. Sư lại có người anh họ, là Lưu
     Khánh Đàm (XV/1), bạn thân của Lý Thường Kiệt. Vì vậy, Thường Kiệt đã,
     vì sư và Khánh Đàm, sửa chữa chùa Hương Nghiêm ở trong trị hạt của ông.

         Bia HN chép chuyện trên, nối lời rằng:
         "Năm Tân Dậu (1081), hai phò ký lang, họ Thiều và Tô, xin đất phong
     ấp của họ Lê. Vua bèn xét, định trả lại giáp Bối Lý cho họ Lê. Mùa thu năm
     ấy,  thái  úy Lý Công tới  trả  ruộng đất.  ông lập bia  đá  chia  ruộng cho hai
     giáp... Thái úy dặn đi dặn lại, bảo hai giáp không được lấy một lá lau lách ở
     hai bên bờ phân giới..."
         Chính  tích của Lý Thường Kiệt trong mười chín năm tại trấn, mà nay
     chi ghi được một việc cỏn con như thế mà thôi. Thật là đáng tiếc, mà đáng
     trách các sử gia và văn sĩ ta đã không ghi chép việc thường ngày.

         4.  Trở về triều
         Bia BA kể công đức Lý Thường Kiệt ở Thanh Hóa có nói; "Trong mười
     chín năm, ông thực hành tiết tháo". Ta có thể hiểu rằng ông ở Thanh Hóa
     trong mười chín năm,  từ năm  1082 đến  năm  1101.  Sách TT chép vào năm



                                       273
   257   258   259   260   261   262   263   264   265   266   267