Page 210 - Lịch Sử Văn Minh Thế Giới
P. 210
(3)
bộ kinh phật và nhiều sách viết bằng chữ Chiêm bà . Sau đó từ
thế kỉ XIII trở đi, chữ Chămpa cổ chuyển dạng sang kiểu chữ
vuông của Bắc Ấn. Sau thế kỉ XV, chữ Chămpa trở lại nét cong
và móc nhƣng phóng khoáng hơn. Theo một số nhà nghiên cứu,
chữ Chămpa có 65 kí hiệu trong đó có 41 chữ cái và 24 chân chữ
bắt nguồn từ hệ thống chữ thảo của Ấn Độ.
Chữ viết Khơme bắt nguồn từ chữ ở miền Nam Ấn Độ và
theo truyền thuyết xuất hiện vào khoảng thế kỉ II, nhƣng tấm bia
đầu tiên của ngƣời Khơme bằng chừ Khơme cổ mà hiện nay ta
biết đƣợc là bia Ăngco Bôrây (Takeo) có niên đại năm 611.
Bia nói về việc dựng một ngôi đền trong đó có tới 22 nhạc
công và vũ nữ, 58 nô lệ làm ruộng, 100 bò và 20 trâu.
Bia viết bằng chữ Mã Lai cổ sớm nhất là tấm bia tìm thấy ở
Xumatơra có niên đại năm 683.
Theo những dấu tích đã biết, có thể là chữ Thái cổ đã hình
thành khoảng đầu thế kỉ XIII ở vùng dân cƣ Thái quần tụ ở phía
Bắc Đông Dƣơng - phía Tây Nam Trung Quốc. Qua chữ Shan ở
Bắc Mianma, ngƣời ta thấy văn tự Thái cổ có mang nhiều yếu tố
của chữ Pêgu cổ. Còn chính chữ Pêgu cổ từ khi xuất hiện vào
đầu công nguyên lại chịu ảnh hƣởng của chữ cổ Ấn Độ. Chữ
Thái - Xiêm, chữ viết của những cƣ dân nói tiếng Thái ở khu
vực Chao Phaya đã ra đời vào khoảng thế kỉ XIII trên cơ sở đó.
Bia đầu tiên khắc bằng chữ Thái - Xiêm mà ta biết đƣợc là
bia Rama Kamheng có niên đại năm 1296, trong đó có đoạn:
"Trƣớc đây chữ Thái này chƣa có. Năm 1205 Saka (năm 1283)
Phà Khun Ram Kamheng đã tìm kiếm và ao ƣớc sử dụng đƣợc
chữ Thái. Cho nên đã có những dòng chữ này". Nhƣ thế có thể
thấy rằng chữ Thái - Xiêm đƣợc Ram Kamheng khởi xƣớng từ