Page 170 - Kiến Trúc Đình Chùa Nam Bộ
P. 170

các công trình nehê thuật kiến trúc tiêu biểu một thời của vãn hóa Đại Nam (nửa đấu thế
           kỷ XIX về trước)  như chùa Khải  Tường, chùa Từ Ân,... (Xem chương I), rất  ít di vật cũ
           được may mắn sót lại (tiêu biểu như tượng A-di-đà chùa Khải Tường - tại Viện bào tàng
           Lịch  sử Sài  Gòn).  Những  chi  tiết  nghệ  thuật  trong  kiến  trúc  đình  và chùa,  nhất  là các
           đình, chùa có niên đại trên  100 năm, là các di vật rất quí hiếm, nó góp phần làm tăng giá
           trị nghệ thuật vốn cộ của di sản kiến trúc đình, chùa. Như vậy, không chỉ các giá trị nghệ
           thuật  kiến trúc  trong đình,  chùa  tất yếu  phải  được  bảo tồn,  mà còn  phải  chú trọng  bảo
           tổn cà các chi tiết nghệ thuật, dù rất nhỏ, mang dấu ấn lịch sử.
             Định hướng cho công tác  bảo tồn trong việc gìn  giữ di  sản nghệ thuật của kiến trúc
           đình,  chùa,  tốt  nhất  là  bảo  tổn  nguyên  trạng  (tất  nhiên)  các  giá  trị  di  sản  nghệ  thuật,
           không “can thiệp” vào nó dù chỉ là di dời. Đối  với di sản nghệ thuật, bảo tổn chỉ nên là
           bảo quản là chủ yếu, mọi sự thay đổi ngay cả bổ sung bất cứ một bộ phận chi tiết nào đã
           bị mất, dù rất nhỏ, dều có khả năng ảnh hường đến giá trị nghệ thuật của di sản, bời vì:
           “Đối  với di vật và di lích,  quan niệm lịch sử hiện đụi  và  bào tàng học hiện đụi đưa ra
           đòi liòi có tính chất xuyên suốt nhất là giữ clio được tính nguyên gốc. Tức lá di tích phái
           dược chuyển trao cho cúc thế hệ mui sau à dạng chứng tích  [28], Di sản nghệ thuật có
           “tuổi” càng  cao,  càng  nên  đặc  biệt  thận  trọng  trong  việc  bảo tổn. Đối  với  di  sản  nghê
           thuật  kiến Irúc  gỗ,  trải qua lâu đời, thường bị  mối  mọt,  rêu phong phá hoại, biến dạng,
           mục nát... vượt giới hạn của bảo quản, cẩn tu sửa. Trong tu sừa chỉ nên là cứu chữa nhằm
           kéo dài tuổi thọ của nó ở dạng nguyên trạng tối đa.
             Đặc biệt trong kiến trúc đình và chùa, về  phương diện nghệ thuật, ngoài bản thân di
           tích kiến trúc, ý nghĩa nghệ thuật còn biểu hiện qua phong cách và nội dung thờ tự. Đối
           với đình, chùa Nam Bộ vào các thế kỷ XVII, XVIII, XIX, phần lớn do chính các lưu dân
           Việt  - Hoa lạo nên,  phần nhiẻu họ  là các  nông dân  ít chữ;  hầu  hết không  “thuộc” kinh
           Phật, không biết tụng kinh kể cà am tường lai lịch các vị Thần Hoàng hoặc Bồ Tát được
           thờ tự. Họ đến dinh, chùa là đến với nơi thờ tự “ơn trên” thuần tín ngưỡng đế  cẩu phúc,
           cẩu sự an bình trong xã hội nhiễu nhương đầy biến động.  Song song với  mục đích trên,
           chính cái “trực quan sinh động” của không gian thờ tự, nhất là hệ thống tượng thờ trong
           đình chùa dã “giáo dục” đạo đức cho chính  họ và con cháu họ những điều cơ bản nhất
           trong  phương cách  sống.  Đạo  lý “Uống  nước  nhớ nguồn”  được  thể  hiện trước  tiên qua
           nội  dung ưu  tiên  trong  không  gian  thờ tự:  Một  tổ đường  (Nơi  thồ các sư tăng có công
           khai sáng và gìn giữ ngôi chùa) rộng rãi uy nghicm nhất trong nội tự; một tiền đường thờ
           Tiền hiển, Hậu hiển (các vị có cóng khai khẩn và đặt thể chế cho một làng) khang trang
           bề  thế nhất  trong  nội  đình;  lạy  Tổ  trước  lạy  Phật,  bái  Hiển  trước  bái  Thẩn...  đều  hàm
           chứa ý nghĩa của đạo lý “nhớ nguồn” này. Tinh thần quên mình vì cộng đồng, vị tha bác
           ái  với nhân sinh, cứu  giúp người  khốn khổ, dù đó là các tội đổ..., thể hiện qua hai  hình
           tượng Quan Âm và Địa Tạng, được tồn trí (đặt trang trọng) ờ vị trí đặc biệt hai bên Phật
           điện.  Loạt  tượng Thập Điện  Diêm  Vương “giáo dục trực tiếp  về lẽ sống,  cảnh  tỉnh  kịp

                                                                      171
   165   166   167   168   169   170   171   172   173   174   175